![]() |
Hồ đồ thi nhân Trần Sỹ Kháng |
Trần Sỹ Kháng
I. VÀO TAM GIỚI
Mây lang thang vô định
Không Huyền Giới đi về
Em đâu thể biết được
Trái tim Người tái tê.
Lời bàn: Tam giới, cũng được gọi là Tam hữu, là ba cõi của Vòng sinh tử, là nơi mà loài Hữu tình tái sinh theo hướng Lục đạo Luân hồi. Lục đạo là sáu đường. Luân hồi là xoay vần. Lục đạo luân hồi chính là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, người, trời. Khái niệm Tam giới này có thể hiểu là Vũ trụ quan. Tam giới bao gồm: Dục giới, sắc giới và Vô Sắc giới… để hiểu cặn kẽ về Tam Giới là cả một vấn đề thời gian.I. VÀO TAM GIỚI
Mây lang thang vô định
Không Huyền Giới đi về
Em đâu thể biết được
Trái tim Người tái tê.
Mây lang thang vô định không Huyền Giới đi về em không hiểu được trái tim Người tái tê… thoạt nghe đã biết đây là một “chủng” thơ của một “loài” thi nhân tự nhận là “hồ đồ”!
II. TA LÀ AI
Hình như Cõi này tạnh vắng quá
Chưa thấy chúng sinh nào vấn an Ta
May quá Hồn ta còn ở trong Huyền Giới
Có Thi Ca Ngọc Nữ tưới chăm
*
Ta giờ đây không hồn chẳng xác
Ta là Ai? Ai trả lời Ta
Ta đối thoại với cả Hồn lẫn Xác
Họ bảo Ta: Một Cõi Tri Âm
Hình như Cõi này tạnh vắng quá
Chưa thấy chúng sinh nào vấn an Ta
May quá Hồn ta còn ở trong Huyền Giới
Có Thi Ca Ngọc Nữ tưới chăm
*
Ta giờ đây không hồn chẳng xác
Ta là Ai? Ai trả lời Ta
Ta đối thoại với cả Hồn lẫn Xác
Họ bảo Ta: Một Cõi Tri Âm
Lời bàn: ( Cõi trong lục đạo luân hồi theo quan niệm của Phật giáo là tùy nghiệp, sau khi chết, chúng sinh có thể tái sinh trong 6 cõi. 6 cõi bao gồm: cõi trời, cõi thần, cõi người, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục). Ta là ai ? là câu hỏi nghe có vẻ “ấm ớ dớ dẩn”, nhưng đó là câu hỏi mà các bậc cao minh cũng không dễ trả lời cho được. “Cõi Tri Âm” không có trong 6 cõi tái sinh, là cõi riêng mà “hồ đồ thi nhân” tìm trú ngụ trong “cõi tạnh vắng” của mình!) Bài thơ có giọng hơi kiêu nhưng mà hay!
III. GẶP THI CA HUYỀN NỮ
Không Mỹ nhân Thi ca đâu có
Thi ca trong Mỹ nhân khó được dung thân
Vẫn như thể có ngươi thì ta không tồn tại
Để lại Hồng Trần ngao ngán tiếng thở dài
*
Rồi một mùa xuân trong hỗn mang trời đất
Ta bắt gặp bơ vơ một Bản địa Cốt hồn
Cốt hồn ấy của nàng dâng Ta không cần khế ước
Bởi nàng là hiện thân của Bản Địa Tinh Hoa
*
Em tháng ngày tắm gội trong Thi Ca
Cốt cách hóa thanh kỳ huyền ảo
Và những đứa con đã lên ngôi tinh thần xuất thế
Em khẽ khàng cất giấu trong Vô hữu xứ tim Em
*
Em bây giờ không là tháng ngày qua
Em đã nhấn chìm Thi nhân vào Biển Ái
Em với Thời Gian không còn qua lại
Vì em có Quyền Năng Vô Thượng-Tình Yêu
Không Mỹ nhân Thi ca đâu có
Thi ca trong Mỹ nhân khó được dung thân
Vẫn như thể có ngươi thì ta không tồn tại
Để lại Hồng Trần ngao ngán tiếng thở dài
*
Rồi một mùa xuân trong hỗn mang trời đất
Ta bắt gặp bơ vơ một Bản địa Cốt hồn
Cốt hồn ấy của nàng dâng Ta không cần khế ước
Bởi nàng là hiện thân của Bản Địa Tinh Hoa
*
Em tháng ngày tắm gội trong Thi Ca
Cốt cách hóa thanh kỳ huyền ảo
Và những đứa con đã lên ngôi tinh thần xuất thế
Em khẽ khàng cất giấu trong Vô hữu xứ tim Em
*
Em bây giờ không là tháng ngày qua
Em đã nhấn chìm Thi nhân vào Biển Ái
Em với Thời Gian không còn qua lại
Vì em có Quyền Năng Vô Thượng-Tình Yêu
IV. TRỞ VỀ ẤP Ủ TRÁI TIM EM.
Chỉ có Tây Hồ Trời Nam Đệ Nhất Danh Thắng
Là chẳng bao giờ phụ Em dù sương khói ảo mờ
Như thơ Ta đã ngàn năm lang thang chân trời góc biển
Rồi cũng trở về ấp ủ cóng lạnh trái tim Em
Là chẳng bao giờ phụ Em dù sương khói ảo mờ
Như thơ Ta đã ngàn năm lang thang chân trời góc biển
Rồi cũng trở về ấp ủ cóng lạnh trái tim Em
Lời bàn: Chỉ có một Tây Hồ Trời Nam Đệ Nhất Danh Thắng , và, cũng chỉ có một Ngọc Nữ Tây Hồ là Đệ Nhất Mỹ nhân trong cõi Hồ Đồ của Thi Nhân. Phải chăng là thế?
V. VĂN HOÁ BẢN ĐỊA DÂNG TẶNG MỸ NHÂN
Ta túy lúy mấy vạn năm nơi THIÊN GIỚI
Thi thoảng vẫn sầu rơi vì nhớ Ngọc Nữ xứ Tây Hồ
Ta bao lần gửi mây lành xuống rước em về Vương Phủ
Nhưng Mỹ nhân có chịu đâu, thích lêu lổng đất Kinh Kỳ
Thi thoảng vẫn sầu rơi vì nhớ Ngọc Nữ xứ Tây Hồ
Ta bao lần gửi mây lành xuống rước em về Vương Phủ
Nhưng Mỹ nhân có chịu đâu, thích lêu lổng đất Kinh Kỳ
Vô song bút lực Ta đã đánh thức Cốt
Hồn Bản Xứ
Nên văn hóa Đế Đô chẳng hề do dự khi dâng tặng nàng cho Ta
Ta không chỉ sủng ái Mỹ Nhân đến tột cùng cung bậc
Mà còn tấn phong nàng Tây Hồ Ngọc Nữ Đệ Nhất Danh
Nên văn hóa Đế Đô chẳng hề do dự khi dâng tặng nàng cho Ta
Ta không chỉ sủng ái Mỹ Nhân đến tột cùng cung bậc
Mà còn tấn phong nàng Tây Hồ Ngọc Nữ Đệ Nhất Danh
Lời bàn: Ta không chỉ sủng ái Mỹ Nhân đến tột cùng cung bậc/ Mà còn tấn phong nàng Tây Hồ Ngọc Nữ Đệ Nhất Danh. Ta bao lần gửi mây lành xuống rước em về Vương Phủ/ Nhưng Mỹ nhân có chịu đâu, thích lêu lổng đất Kinh Kỳ. .. Có mâu gì chăng vời Mỹ Nhân về Vương Phủ Thiên Giới mà lại đem Văn Hóa Bản Địa dâng tặng Mỹ Nhân
VI. SỰ LƯU LẠC CỦA MỸ NHÂN
Ta đã lạc em đã mấy kiếp người
Đã đi tìm em muôn phương trời
Bao hành tinh chân em lưu vết
Mà tăm biệt bóng em nơi đất khách xứ người.
Ta đã lạc em đã mấy kiếp người
Đã đi tìm em muôn phương trời
Bao hành tinh chân em lưu vết
Mà tăm biệt bóng em nơi đất khách xứ người.
Lời bàn: Người ta thường nói bất kỳ một mối quan hệ nào đó tồn tại thì chắc chắn đó là duyên, nhưng ở bên nhau được hay không thì còn chờ ở phận. Duyên do trời định. Phận do người tạo. Có khi tìm mấy kiếp người mới gặp được duyên. Sự lưu lạc của mỹ nhân dù ở đâu, xa cách bao lâu, thì rồi ta cũng sẽ gặp nhau ! Ý bài thơ này e không phải họ đang ở xa cách. Ý bài thơ này nó nằm ở câu đầu. “Ta đã lạc em đã mấy kiếp người”. Nghĩa là, ta và em là có duyên với nhau từ nhiều kiếp trước, không may bị lạc mất nhau, ta bỏ công đi tìm em khắp nơi, nay mới gặp được. Ta gặp em là do duyên trời. Mong em hãy yên phận mà gắn bó với ta! Tán gái theo sách nhà Phật là một cách rất hay thưa thi sĩ họ Trần!
VII. THIÊN GIỚI HƯƠNG
Ta đang nhớ nồng nàn Mùi Hương Thiên Giới ấy
Đã bao kiếp rồi thường trực bên Ta
Và biết Em thích một mình dong chơi nơi Hạ Giới
Ta nhọc lòng đi tìm để đưa em về Huyền Giới của Thi ca
Lời bàn: Thực mà ảo , ảo mà thực là mối quan hệ biện chứng trong thi ca. Cái thực thường là cái cụ thể, cái đơn nghĩa. Thơ muốn thành thơ thì phải trở nên huyền ảo và đa nghĩa. Trong trường hợp những bài thơ ngắn, chí ít cũng cần có cái tứ ảo, bài thơ mới có độ rung cảm thẩm mỹ. Bài thơ này của HDTN về cú pháp thì đơn giản, những ý tứ sâu xa của nó nằm trong những khái niệm được dùng, ví như, câu: Ta đang nhớ nồng nàn Mùi Hương Thiên Giới ấy, chẳng hạn! Hương Thiên giới, là hương người, hương đức hạnh. Hương không theo quy luật thông thường, hương bay thuận theo chiều gió. Trong kinh Pháp Cú, phẩm Hoa (Puphavagga), Đức Phật dạy : Hương các loại hoa thơm – Không ngược bay chiều gió – Nhưng hương người đức hạnh – Ngược gió khắp tung bay. “Thiên Giới Hương” vì thế mà mang một ý nghĩa thoát tục, cho nên, nhớ mùi hương nồng nàn là thực, nhưng nhớ nồng nàn “Mùi Hương Thiên Giới” là ảo, là thuộc về cõi Huyền Giới của Thi ca rồi!
Ta đang nhớ nồng nàn Mùi Hương Thiên Giới ấy
Đã bao kiếp rồi thường trực bên Ta
Và biết Em thích một mình dong chơi nơi Hạ Giới
Ta nhọc lòng đi tìm để đưa em về Huyền Giới của Thi ca
Lời bàn: Thực mà ảo , ảo mà thực là mối quan hệ biện chứng trong thi ca. Cái thực thường là cái cụ thể, cái đơn nghĩa. Thơ muốn thành thơ thì phải trở nên huyền ảo và đa nghĩa. Trong trường hợp những bài thơ ngắn, chí ít cũng cần có cái tứ ảo, bài thơ mới có độ rung cảm thẩm mỹ. Bài thơ này của HDTN về cú pháp thì đơn giản, những ý tứ sâu xa của nó nằm trong những khái niệm được dùng, ví như, câu: Ta đang nhớ nồng nàn Mùi Hương Thiên Giới ấy, chẳng hạn! Hương Thiên giới, là hương người, hương đức hạnh. Hương không theo quy luật thông thường, hương bay thuận theo chiều gió. Trong kinh Pháp Cú, phẩm Hoa (Puphavagga), Đức Phật dạy : Hương các loại hoa thơm – Không ngược bay chiều gió – Nhưng hương người đức hạnh – Ngược gió khắp tung bay. “Thiên Giới Hương” vì thế mà mang một ý nghĩa thoát tục, cho nên, nhớ mùi hương nồng nàn là thực, nhưng nhớ nồng nàn “Mùi Hương Thiên Giới” là ảo, là thuộc về cõi Huyền Giới của Thi ca rồi!
VIII. SÁO ĐỊNH MỆNH
Khi nàng theo Ta về Vương Phủ
Nhớ mang theo chiếc áo ấy cho Ta
Ta thấy Tây Hồ chiều nay khoác nó
Có phải em đang dỗ dành nơi tình yêu đi qua
Nhớ mang theo chiếc áo ấy cho Ta
Ta thấy Tây Hồ chiều nay khoác nó
Có phải em đang dỗ dành nơi tình yêu đi qua
Đã ngàn năm em vất vả mang theo
Từ Đâu Xuất xuôi Trời Đao Lợi
Nơi có dấu chân Ta là em đi tìm
Từ Đâu Xuất xuôi Trời Đao Lợi
Nơi có dấu chân Ta là em đi tìm
Em nên nhớ muôn kinh thành Cõi Dục
Cũng chẳng bằng Định Mệnh Áo ấy đâu
Chiếc áo ấy là Thi Ca Huyền Giới
Nơi em tìm lại Ta-Khát vọng của xưa xa.
Cũng chẳng bằng Định Mệnh Áo ấy đâu
Chiếc áo ấy là Thi Ca Huyền Giới
Nơi em tìm lại Ta-Khát vọng của xưa xa.
Lời bàn: Định mệnh là sự an bài của số phận. Người Phật thì tin rằng định mệnh là nghiệp. Mỗi người mang theo một “nghiệp” nào đó. Chiếc Áo Định Mệnh của HDTN không đơn giản là thế. Mà là: “Chiếc áo ấy là Thi Ca Huyền Giới.” Bài thơ không dễ giải thích bằng ý nghĩa thực của khái niệm. Nhưng có thể tìm thấy vẻ đẹp của “Áo Định Mệnh” trong thi cảm: “Ta thấy Tây Hồ chiều nay khoác nó”… nó là: …muôn kinh thành Cõi Dục s/Cũng chẳng bằng Định Mệnh Áo ấy đâu!
Mỹ Nhân hẹn mà sao chưa đến
Uổng mấy trăm năm Ta đợi chờ
Chiều Tây Hồ vật vờ cơn ngủ
Mà sóng lòng đâu để yên ta
Phòng một mình thở dài lèn chặt
Thương cầu thang giật thột bước chân ai.
Lời bàn: Đợi chờ là một trạng thái tâm lý có yếu tố sinh- hóa- lý và ngược lại. Mối tương quan giữa “tâm lý đợi chờ” và “ sinh- hóa- lý đợi chờ” là có thật. Người đời chỉ hiểu tâm trạng bồn chồn, đi đứng không yên, ra ngẩn vào ngơ mà không giải thích được. Thi sĩ có thể diễn tả tâm trạng này bằng thơ “uống mấy trăm năm đợi chờ”, còn HDTN có thể lý giải tại sao “sóng lòng đâu để yên ta” bằng cơ chế sinh- hóa- lý được không? Muốn hỏi lại nhà vật lý thi nhân được không?
X. NGHIÊNG
NGẢ LY TRÙNG PHÙNG
Thôi cứ cạn ly xanh chiều nay đã
Biết mai sau Mỹ nhân còn cho thơ
Em đâu nhớ ly xanh nàng dâng ta kiếp trước
Nước Thiên Hà có thấm tháp vào đâu
Thôi cứ cạn ly xanh chiều nay đã
Biết mai sau Mỹ nhân còn cho thơ
Em đâu nhớ ly xanh nàng dâng ta kiếp trước
Nước Thiên Hà có thấm tháp vào đâu
Ta đánh mất nhau biết bao thời gian
Nên không thể lạc em thêm nữa
Ly trùng phùng trời nghiêng đất ngả
Giữa Tây Hồ ghen sóng nổi cuồng phong
Nên không thể lạc em thêm nữa
Ly trùng phùng trời nghiêng đất ngả
Giữa Tây Hồ ghen sóng nổi cuồng phong
Lời bàn: Nghiêng ngả là động từ, là để chỉ sự giao động; ly là ly rượu, là danh từ; còn trùng phùng là niềm vui của sự gặp gỡ, của sự sự gặp lại, là tính từ. Nếu đem sự hiểu biết ngữ pháp để giải thích về thơ , e làm cho thơ xơ cứng đi. Bài thơ nhờ những từ như “Mỹ Nhân, ly xanh, ghen sóng, trùng phùng, cho thơ …mà động từ nghiêng ngả trở nên đa nghĩ nghĩa hơn. Vô hình dung con mắt vật lý thô cứng của nhà vật lý trở nên diệu huyền hơn khi các hiện tượng vật lý đo đếm được trở nên có hồn vía của thi ca trong đó!
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét