Quá sáu
mươi năm cuộc đời, quá chập chùng chấp chới dòng người – Lê Huy Mậu lại ưỡn ngực
hít sâu ngồi lên cõi bập bênh vẫn tưởng đã cũ mòn: Tình ái! Bằng tác phẩm thi
ca nóng bỏng và dường như giàu có gió và lửa nhất của ông: Mời em cạn nửa chén
tình.
Người đọc sẽ
phải ngạc nhiên – trầm trồ ngạc nhiên, trước hết – theo như Lê Huy Mậu tâm sự –
đây là những cuộc đối đáp theo cảm hứng của ông cùng thế giới thông tin đầy ắp
mỗi ngày trên mạng internet – với bè bạn, đồng nghiệp, với vợ con, gia đình,
người thân, với nhân dân mấy ngàn năm anh dũng kham khổ gần gũi và xa lạ, với
người quen thân và kẻ chưa hề biết mặt, với đất đai xứ sở mến yêu từ mảnh đất
chôn rau cắt rốn cho tới vuông cỏ vĩnh hằng… Có phần nào phóng khoáng hơn các tập
thơ trước, là Lê Huy Mậu đã chuyển mấy phần từ trạng thái độc thoại hoặc suy tư
cô đơn sang một cuộc hội thoại cởi mở hơn, thoải mái hơn và đa chiều hơn – với
tha nhân trong thơ và ngoài thơ. Về lịch sử, về đất nước, về con người, về tình
yêu, về tự do, về cái chết,… – nhưng là lịch sử đang sinh sôi, về đất nước đang
chuyển mình, về con người đang vất vả thăng hoa, về tình yêu đang quặn thắt kiếm
tìm vĩnh cửu, về tự do đang đổ mồ hôi sôi nước mắt trả lời câu hỏi “tự do là
gì?”, về cái chết đang từ bỏ vương quốc bệnh viện và nhà xác để xây ngai vàng mới
trong ý thức người còn sống,… Cái tôi Lê Huy Mậu khiêm cung hơn, và “bản lĩnh”
hơn:
“Trong giấc mơ xanh bời bời cỏ
(Lãng mạn
cao nguyên – Mời em cạn nửa chén tình – NXB Hội nhà văn 2013)
Sau khi đã:
“Thời gian
mặc áo cho người
Dại- khôn-
dày- mỏng áo trời như nhau”
(Mời em cạn
nửa chén tình – Mời em cạn nửa chén tình – NXB Hội nhà văn 2013)
Ước mơ làm
“chàng” Bùi Giáng là ước mơ dại. Thi nhân xưa luận về chữ dại khôn, có lẽ Lê
Huy Mậu đã thắm: “Ai khôn thì dại, ai dại thì sao…” – mà vẫn một lòng “đi tìm bến
mê để biết mình mê” trong chữ Yêu nông nổi và thẳm sâu nhất của loài người:
“Vạn vật
nháo nhào tìm yêu trong trời đất
Viên mãn
tròn đầy đồng nghĩa cùng sự chết”
(Nếu một
ngày – Mời em cạn nửa chén tình – NXB Hội nhà văn 2013)
Tình – dù là tình trong thơ – dẫu muôn hình vạn trạng nhưng
vẫn không bao giờ bỏ quên đặc tính cố hữu và thiêng liêng nhất của mình: Buồn!
Bao nhiêu cái sự buồn, ai đã từng yêu mà không đếm được: Buồn vì lỗi hẹn, buồn
vì ngang trái, buồn vì đơn phương, buồn vì lầm lỡ,… Kể cả, buồn vì viên mãn –
thì Lê Huy Mậu đã chạm đến cội nguồn của vòng tròn mưa mây:
“Tình một
chút cho nhau
Mà vầng
trăng có vết”
(Đêm trăng
non – Mời em cạn nửa chén tình – NXB Hội nhà văn 2013)
Một biến
thái hay là biến động lạ lẫm, dễ khiến hình dung đến màu sắc và cảm giác lạ kỳ.
Vẫn bằng những chi tiết rất nhỏ, người thi sĩ công khai giới tính của mình bằng
thơ – chứ không phải bằng bất cứ thứ gì khác:
“Trời hóm hỉnh
khép mắt trong giây lát
Cho bản
năng con người cất tiếng hát
Trong áo đêm huyền diệu giấu che ta
Rồi ban mai đức hạnh lại sáng lòa
Giữa dòng chảy của nhân quần tất tả
Nồng nàn ủ trong em âm thầm ngọn lửa”
(Áo đêm - Mời em cạn nửa chén tình –
NXB Hội nhà văn 2013)
Ở đây, chung thủy không còn là một
khái niệm. Chung thủy là một cảm giác. Ngọn lửa âm thầm giục chàng Bùi Giáng suốt
đời mặc niệm với người tình mù khơi. Giục thiên nhiên lồi lõm trên tròng mắt
thi sĩ. Giục đêm về sáng. Giục Lê Huy Mậu chiêm bao vớt mộng như Hư Trúc hạnh
duyên cùng Mộng Cô trong khúc tình ca huyễn hoặc Thiên long bát bộ của Kim
Dung. Vấn đề của Kim Dung tuy cũ, nhưng sống mãi như một liêu trai tuyệt mỹ
trong lòng người vì nỗi niềm thủy chung nhà văn đã đặt ra: Yêu là gì? Yêu, có
thật chỉ có trong thực tại? Hay là, yêu lấp lánh tồn tại và bền bĩ vẹn nguyên
nhất trong mộng ảo? Có thể, vì trong mộng – dường như con người ta không biết
và không thể nói dối – với mình và với người khác.
Mộng ở đây, là mộng của thăm thẳm
khát vọng nhân tình. Là tương lai hiện diện đồng thời trong ký ức và hiện tại.
Chứ không phải là chút tưởng tượng để kéo dài nỗi tham lam đối với hiện tại
không như ý. Tiệm cận và chưa bao giờ giao với cái mộng của Tản Đà như lời Phạm
Quỳnh: “… vì cớ sao ông (Tản Đà) khởi ra cái mộng như thế, thì biết rằng vì cái
cảnh ngộ, nó đã khiến cho thân chẳng bằng mộng, nên mộng cho cam thân…”.
Yêu ở đây, là một cách thức sống trọn
vẹn chứ không chỉ là một khía cạnh của sự sống. Dày mỏng “dại – khôn – được – mất”
chẳng khác gì những va vấp trên con đường hướng tới hạnh phúc – là những phương
tiện kinh nghiệm đắp bồi niềm tin và hy vọng. Loại bỏ hoàn toàn các thỏa hiệp
“cho vừa lòng nhau” bấy lâu nhiều người vẫn lầm tưởng là tình yêu. Và, làm nên
một chân dung mới cho tình yêu: Cái đẹp và nguyên lý biến thiên áp dụng cho
riêng cái đẹp!
“Phan kim Liên nàng ơi!
Xin đừng
oán Thi Nại Am và Thủy Hử
Xin đừng
oán tài năng và con chữ
Nhan sắc
nào chẳng chịu kiếp hồng nhan!
Dù thơ tôi
không đủ dựng lại tiết hạnh nàng
Cũng xin viết
lên trời ba chữ
Cho hôm nay
và cho cả ngày mai nữa”
(Phan Kim
Liên – Mời em cạn nửa chén tình – NXB Hội nhà văn 2013)
Không chỉ
có Phan Kim Liên, nàng Kiều, Hạ Cơ – những nhân vật “huyền thoại” của văn
chương kim cổ, Lê Huy Mậu còn dốc lòng đi tìm những Mộng Cô trong đời thực: “Gấy
Nghệ”, cô chủ quán xưa, thục nữ Hà thành, em gái quen qua chat, và kể cả, người
đầu ấp tay gối cả đời… Thơ cho con người ta cái quyền tự mình làm tác giả những
giấc mộng đời mình – chứ không nhất thiết phải có bàn tay nào nhào nặn lên. Đặc
quyền này, không đến từ những giá trị thường thức như quyền lực, tài năng, giàu
có – mà hoành tráng công khai sinh sôi và nảy nở giữa mảnh vườn suy tư và tâm
niệm. Lê Huy Mậu chắc gì đã “bênh vực” cho hồng nhan họ Phan mang nặng tính cổ
tích, có thể, ông đang bào chữa hoặc báo động về tình trạng lạm phát việc khai
sinh ra quá nhiều “oan án tình trường” trong trái tim con người đương thời. Bởi
chính mình và các nghệ sĩ đồng nghiệp. Bởi vô vàn lớp lớp sóng chữ đang ồ ạt cuốn
xô rác thời đại. Kỳ vọng “dựng lại tiết hạnh” Phan Kim Liên là một tham vọng
quá đỗi chân chất – tác giả Thủy Hử khi “dựng” hình tượng dâm nữ sát chồng lưu
truyền muôn đời cũng tham vọng đến thế mà thôi.
Tình của Lê
Huy Mậu là vậy!
Thơ tình của
Lê Huy Mậu là vậy!
Không chìm
đắm trong tột cùng ngữ nghĩa, mà lặng lẽ bày ra những khoảng vắng kiêu hãnh huyền
tích như lỗ thủng ở nhánh xương sườn thứ bảy của Adam làm bài ca tình yêu ngơ
ngác cung bậc cho mình và cho người. Nhà phê bình văn học Nguyễn Đức Tùng từng
phân giải: “Trong văn chương, có hai cách nói thật. Một là thành thật, tức là tự
bộc lộ trước người khác. Hai là tuyên bố về sự thật, kể lại sự thật” (Nguyễn
Quang Thiều: Trở về mái nhà xưa – Thơ Việt Nam hiện đại & Nguyễn Quang Thiều
– NXB Hội nhà văn 2012). Lê Huy Mậu đã chọn cách nào trong hai cách? Hoặc đã từ
chối cả hai cách bằng cách nào? Tận cùng mọi sự lựa chọn là thái độ an nhiên mặc
cho đối tượng lựa chọn mình. Sự thật không bao giờ thánh thót – chỉ có tình yêu
sự thật thánh thót vạn dặm tâm hồn:
“Như không
phải máy bay
Mà chính
mình vừa cất cánh
Từ đường
băng dài ngót sáu mươi năm”
4.
Thi sĩ lừng
danh Aime Césaire có quan niệm rằng: “Nhà thơ là một kẻ rất già nua và rất mới
mẻ, rất phức tạp và rất giản dị, ở quãng biên thùy đã từng qua lại, giữa mộng
và thực, sáng và tối, ẩn và hiện, trong cơn đảo lộn bất thần ở nội tâm, nhà thơ
tìm kiếm và nhận định một thứ âm điệu, tiếng mật ước để hiểu ngầm mà giao ứng
và đi tới mãnh liệt” (Quan niệm và Sáng tác Thơ – Đoàn Thêm dịch). Với bảy tập
thơ – như bảy dây tơ đồng của một cung đàn chưa từng định hình trong thế giới
âm nhạc – Lê Huy Mậu không ngừng tấu lên những luận giải để minh xác cho thế giới
mênh mông đang níu giữ tuổi tên cùng tâm trí mình bằng lực hút vô biên của tình
yêu. Mật ước của Lê Huy Mậu – bổ sung vào kho tàng mật ước tình người bất tận.
Đời rộng hơn và tình sâu hơn – khi biên độ của chân lý mở ra, mở ra cho đến khi
người ta chỉ còn cảm nhận được nó một cách mơ hồ. Nó vẫn tồn tại khi không ai
thấy. Nó vẫn miệt mài ảnh hưởng lên tri trí tất cả vật sống và vật chết trong
nó – một cách âm thầm mà dai dẳng. Cho đến khi giới hạn của tâm và ý, giữa hữu
hình và vô hình chỉ còn lại trong dấu gạch
nối hồn nhiên tiếng khóc chào đời và nhịp thở cuối cùng. Nội tâm của một nhà
thơ không nằm ngoài quy luật sinh tồn của vạn vật. Lê Huy Mậu ghé vai gánh vác
dòng chảy của thi ca thời đại mình bằng sức chịu đựng của một lông hồng nương
theo ngọn gió. Mật ước tạo nên gió. Gió vẽ thành Niết Bàn. Niết Bàn của thánh
thần. Niết Bàn của con người. Niết Bàn của thơ. Và, chẳng ai kể với chúng ta về
thế giới từ bi lãng quên sầu khổ và chỉ có hạnh phúc như sách xưa truyền dạy.
Mặc may,
thi sĩ dấy thân mình trong hãi hùng sướng khổ để chỉ ra một chữ tình tàn phá
càn khôn.
Rainer
Maria Rilke không sai. Các nhà thơ của chúng ta không sai. Phải chăng, cái đúng
đã mang thơ vào đúng chỗ của thơ. Không cần ai đặt để, ngợi ca hay chỉ trích.
Lê Huy Mậu
đã tìm thấy bức tường của mình? Nhà thơ sẽ làm gì? Câu hỏi này, có lẽ, cũng chỉ
có thơ mới tự trả lời bằng những thanh âm vang vọng thăm thẳm cùng thi sĩ trong
nỗi cô đơn thầm kín chẳng bao giờ rõ mặt.
Núi Dinh, 19/04/2013
TRỊNH SƠN.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét