Trần Quang Quý
34 bài thơ trong một
kết cấu tập có hai phần. Phần I là Vạn lý hành, Phần II, Khúc hạ lưu. Phần I là
những bài thơ trong các chuyến Lê Huy Mậu đi nước ngoài: Phương Đông như nền
văn minh sông Hằng (Ấn Độ) hoang sơ và huyền bí, sự lộng lẫy bóng mỹ nhân, lừng
lững các thi nhân, triết gia trong sóng nước mênh mang, huyền ảo Tây Hồ (Trung
Hoa); Phương Tây hiện đại như Pháp, Đức, Mỹ; Đông Âu cổ kính như Ba Lan, Nga…
Phần II là mảng thơ anh viết trong nước nhưng đã không còn những hân hoan, dềnh
dàng kỷ niệm, hoan hỉ hát ca, mà trong mỗi bài thơ, Lê Huy Mậu đã trở nên đắn
đo hơn, “lý sự” hơn, ngẫm ngợi hơn trên từng trải nghiệm, để có thể kết tủa và đúc
kết những chiêm nghiệm về cuộc đời, nhận diện về mình và người. Thực chất mình
là ai, ở đâu, mình có ý nghĩa gì; lồng ghép trong mối quan hệ rộng lớn giữa
thật và giả, được và mất, nghĩa tình và bội bạc, thiện và ác, quá khứ và hiện
tại; bóng bẩy, hợm hĩnh với cái chân thành, quê kiểng… của nhân tình thế thái.
Có thể nói, Từ muôn
đến một là hành trình trở về mình, là mình. Hành trình ấy bắt đầu là cuộc Vạn
lý hành, nghĩa là những cuộc ra đi từ miền quê mộc mạc xứ Nghệ của chàng thi sĩ
Lê Huy Mậu đến những nền văn hóa, văn minh khác để nhìn rõ hơn mình, xứ mình,
những chân giá trị của mình. Và hành trình ấy kết lại ở Khúc hạ du. Trong cuộc Vạn
lý hành đến nhiều nơi xứ người, Lê Huy Mậu nhận ra một điều hiển nhiên, cũ như
muôn thuở: “Trời ở đâu cũng giống nhau xanh/Cây cỏ ở đâu cũng giống nhau xanh/Sao ta với người khác nhau nhiều thế?”. Câu thơ ngậm ngùi, không đơn giản là
mặc cảm về những điều kiện sống quá cách biệt của họ với nghèo nàn, lạc hậu của
ta mà là lời thảng thốt mộc mạc thương nhớ xứ mình, người quê mình hơn của ông.
Bởi tâm thế Lê Huy Mậu vẫn luôn trở về cái nôi quê dù “khác nhau nhiều thế”, đã
làm nên Lê Huy Mậu thơ, Lê Huy Mậu đời: “Giữa người nhớ quê/Giữa cỏ nhớ mẹ/Nhớ tuổi thơ chim chóc của quê mình” (Vạn lý hành).
Đến khu vườn Chopin ở Warzsawa, trong “tiếng
nhạc nhẹ như lòng người viễn xứ”, hay tiếng mõ chùa ở Mun-chen, “tiếng mõ làm
chiều thêm quạnh vắng”… để càng nhớ quê nhà, đánh thức những ẩn tàng xứ sở luôn
thường trực dù ở chốn phồn hoa, choáng ngợp: “Nếu chẳng thấy rừng phong thu lá rụng/Tôi quên mình đang giữa Mun-chen!”. Tới sông Seine, tới Paris, kinh đô ánh sáng không chỉ để
nhớ sông Hồng, không chỉ để trầm trồ về vẻ đẹp của con mắt du lịch, mà ở đó ông
thấy một phía khác của Petain, Thống chế Pháp đã từng bị Pháp kết án tử hình vì
đầu hàng và theo phát xít Đức trong thế chiến II. Nhưng với ông, Petain là người
cầu an vĩ đại nhất, người đầu hàng vĩ đại, ít nhất cho Paris, cho nước Pháp vì
sự toàn vẹn của thành phố nguy nga này cho hậu thế hôm nay.
Ở mỗi địa danh gặp gỡ, mỗi nhân vật lịch sử, Lê Huy Mậu đều muốn soi chiếu
những góc nhìn khác nhau, gửi gắm những ngẫm ngợi nhân văn phía sau mỗi sự kiện,
hiện tượng… mà ông tiếp cận, kể cả liên hệ nó với thực tại Việt Nam như khi vào
bảo tàng chiến tranh ở Seoul, khi trước nhà triết học vĩ đại Đức - Immanuel
Kant, khi bên sông Hằng, hay ở New York, hoặc trước bức tượng Pi-e Đại đế ở Saint Peterburg…
Trước Kant, ông đưa ra một nguyên nhân biện minh cho đất nước mình vì sao không
có các nhà tư tưởng: “Tôi- một nhà thơ yêu tổ quốc mình/Một tổ quốc
mà lịch sử tài năng đa phần là dùng vào việc đánh giặc/Khi chúng tôi băm bổ lội
ngược vào lịch sử tổ quốc mình/Chợt thấy vỉa tư duy có niên đại khá lâu nhưng
nghèo nàn về chất quặng”. Nghĩa là, nếu tài năng của xứ sở chúng tôi
không bị lịch sử dằng dặc chiến tranh lấy đi thì chúng tôi cũng có thể có ánh
sáng tư tưởng minh triết của mình để phát triển. Đấy là thiên kiến của nhà thơ
yêu nước mình, không bàn chuyện đúng sai. Còn khi trước sông Hằng của những huyền tích, ông băn khoăn: “Đức
Phật từ bi sao dưới chân Người vẫn trầm luân khổ ải?/Sông Hằng buồn một
cách vĩ đại giữa lòng tôi!”.
Với Bữa cơm Việt ở New York
ông lại bùi ngùi cảm động: “Từ cái mùi lá chanh thái
nhỏ rắc trên đĩa thịt gà giữa New York/Tôi nhận ra mùi tổ quốc mình!”. Cái mùi Tổ quốc quả sâu
nặng, ân nghĩa, máu thịt làm sao trong mỗi bước vạn lý hành Lê Huy Mậu, nó được
bộc hiện trong những câu thơ không còn mượt mà, thậm chí gồ ghề rào lên cảm
xúc, tung tẩy xổ dài hoặc cô ngắn, tiết tấu khác nhau trong một cấu trúc đa
dạng hơn hẳn những gì trước của ông.
Nửa sau hành trình, tức Khúc hạ lưu, phần đầu của Khúc này là những bài
thơ tự sự trữ tình, như một niềm tỏ bày, phân giải, ngỏ trước luận sau giữa
“anh và em”, tạo cái cớ để thổ lộ lòng mình, nói được những điều ân nghĩa, cưu
mang, ứng xử, trách nhiệm ở đời. Bài thơ “Hôm qua và hôm nay” là một đặc trưng
như thế. Nó như bản “tự kiểm điểm” của đời thơ chàng thi sĩ ngu ngơ, bao năm
tháng cắn bút viết viết xóa xóa, đổi bao nhọc nhằn để có một câu thơ, không
biết có ích gì không nhưng những cơ hội làm giàu thì cứ trôi qua trước mắt. May
có bà vợ cảm thông, tảo tần chăm sóc. Thế mà: “Ngỡ chồng thích, lọ mọ nấu canh hến/Chồng
lại đi ăn nhậu với bạn bầu/Khi biết lỗi nịnh thối câu gì đó/Rồi lại đi mút chỉ
quanh năm!”. Chả biết
những phụ nữ khác lấy chồng thi sĩ có cảnh huống như vậy không? Người đàn ông
làm thơ “Trót mang nghiệp hồn mây, xác gió”, trót “hành khổ” vợ mình Lê Huy Mậu,
tự nhận trách nhiệm về xứ mạng sáng tạo, bồi đắp những vẻ đẹp của ngôn từ, dù
thơ chỉ là “dìu nhau qua mộng ảo”? Dù có thể thơ “chẳng vượt được tầng ô - zôn
cơm áo”, nhưng không vì thế mà thơ dễ dãi, hời hợt, cũ mèm trước sự sống luôn
luôn vận động, trước sự khám phá không cùng về con người: “Đêm xóa hôm qua/Đêm nở hôm nay/Vẫn là ta/Nhưng không là ta nữa/Nếu chẳng có thêm điều gì mới mẻ/Thì chính đêm qua - đêm mai táng của mình!”. Quả là sự khắt khe, quyết liệt về lý do,
sự hiện hữu thi ca trong đời sống tâm hồn.
Ở một bài thơ khác, bài Lạc tuổi, một lần
nữa Lê Huy Mậu “tự kiểm điểm” một cách thành khẩn việc mần thơ của mình: “Những tháng
năm này em có hiểu cho anh/Sao suốt ngày anh
đi làm thơ vặt?/Khi tặng một nỗi buồn, khi
trêu hoa, ghẹo nguyệt/Sao anh không làm thơ
về thế thái nhân tình?”. Câu tự vấn mình
cũng là đòi hỏi trách nhiệm cao hơn của nhà thơ trước đất nước mà nhiều vấn đề hiện
tại “đang bị nhiễm trùng”, thậm chí “bị ung thư”, thơ không chỉ cứ “trêu hoa,
ghẹo nguyệt”. Ở đây, ông tự nhận mình bất tài, chí đoản, chỉ coi mình: “Anh chỉ
hái lá vườn làm một bát canh thơ!”. Nói những điều lớn lao, to tát là thế về
trách nhiệm thi nhân nhưng lại khiêm tốn về mình, về những bát canh thơ cây nhà
lá vườn, hy vọng mát lòng “mươi lăm kẻ” cũng đã là hạnh phúc rồi. Và cũng chỉ
khiêm tốn, nho nhỏ vậy thôi mà vẫn cứ làm thơ, làm thơ và nịnh vợ: “Khi mệt mỏi thì anh xin em đấy/Em chính là
năng lượng của thơ anh!”. Đây có lẽ
không phải là câu “nịnh thối” như ông nói khơi khơi, mà là sự thành thật của
chàng thi sĩ xứ Nghệ, bởi không có em, không có năng lượng của tình yêu thì
cũng không thể có sáng tạo nào, chứ không chỉ thi ca.
Trong hành trang Vạn lý hành, tất nhiên,
Lê Huy Mậu còn mang theo biết bao nỗi niềm sâu nặng khác. Ở đó, hình ảnh mẹ
luôn làm cho ông có cảm giác hẫng hụt, có lỗi, không bù đắp được cho những cưu
mang, gian truân, lo toan trĩu nặng cõi người của mẹ cha. Đến nỗi, mỗi khi bay đến
xứ khác ông lại ân hận sao mình không đưa mẹ bay được một lần, dù đời sống khi
đó khó khăn, nhưng không phải là không cố lo được. Để bây giờ: “Con ở trên gió mưa bão lụt của mẹ rồi/Nhưng nhớ thương thì vẫn trên mặt đất”, những lời
cảm thán ấy, phỏng có ích gì?
Dường như đã đến cái tuổi hay vân vi, hay ngẫm
ngợi, luôn thấy bóng thời gian xập xè quanh quất bên ta, cả tập thơ mang âm
hưởng ấy. Nhiều khi ngẫm ngợi đến tẩn mẩn, như khi xem một bức hình, “rất dễ
nhận ra những hoa
hậu ảnh/nhưng không dễ nhận ra gương mặt tâm hồn!”. Ta cũng hiểu
vì sao ông dễ giật mình với một điều tưởng người ta cũng biết cả: “Đời thì ngắn mà bao điều phức tạp/Đến lời khen
không đúng chỗ cũng tai ương!”. Khen
không đúng chỗ hay chê không đúng lúc cũng đều có thể có tai ương cả. Trong nỗi
vân vi ngẫm ngợi này Lê Huy Mậu có những quan sát, nhận xét thật sắc sảo và thú
vị: “Quê thừa người khôn thiếu người trí thức/Đi
đâu cũng gặp mẹo vặt ngô khoai” (Qua Dùng). Có lẽ, cái
sự thừa và thiếu, cái mẹo vặt ấy khái quát cho cả xã hội nông nghiệp,
đất nước những quê làng, chứ không chỉ cái vùng quê đèo dốc ở Dùng của ông. Tôi
cho rằng ông nói thế không phải để trách móc, là để cảm thông, thương cho những
thế phận quê làng mà do hoàn cảnh phải sống bằng mẹo vặt. Sống bằng mẹo vặt là
những ứng xử tình huống, lách khe, tiểu tiết… cũng là một thứ thông minh nhưng
không đi xa được. Và như thế nên hay luẩn quẩn, giật gấu vá vai, chịu khổ. Nhưng
từ câu thơ này cũng chỉ ra cái bệnh phổ biến trong lối tư duy tiểu nông, thời
vụ, thiếu chiến lược của ta, nó ảnh hưởng lên mọi mặt đời sống. Ta không xa lạ cảnh
chưa làm đã lạc hậu, xây xây phá phá, vừa xây đã phá, người vun kẻ bới, sản
xuất chỉ thị, nghị quyết hoài mà vẫn trì trệ.
Trong muôn trải
nghiệm, những mất còn, thành bại… ấy, Lê Huy Mậu tổng lược, theo cách của ông: “Đời là đi từ muôn đến một/Muôn ước mơ may lắm một thành/Muôn
chân tu may một lần ngộ giác/Muôn vì sao may có một hành tinh xanh” (Từ muôn đến
một). Biết từ muôn đến một, biết cả mặt sau những hiện tượng, thái độ: “Có nỗi buồn trong như nước lọc/Có niềm vui
nhọn hoắt mảnh sành/Có cái bắt tay thề nguyền lạnh toát/Mình rửa hết đời tay
chưa hết tanh”, để có thể chọn cho mình một thái độ ứng xử, ứng xử của người
từng trải, người đã “biết”, đã chế ngự được mình, chắc chắn sẽ rất khác những
phản ứng bộc trực, tức thì, nóng vội. Và cách ứng xử của nhà thơ bây giờ là: “Mình!/Viên sỏi vô danh/Từ
quê tăm tối/Cuộc đời lăn đi mãi/Mình/Thiểu năng đủ thứ/Nhưng may sao/Trái tim/Chưa thiểu năng nhân nghĩa!” (Tự nhận diện mình). Hay:“Mình /Không miễn nhiễm/Nhưng cũng chẳng dễ lây/Thói hợm hĩnh/Thói
vênh vang/Thói dấu tay, gắp lửa”. Lê Huy Mậu cũng không chối bỏ gốc gác của mình: “Mình /Nhà quê/Trộn
cách sao cũng chẳng lẫn/Nhưng nhà quê không
đồng nghĩa với cù lần”.
Vạn lý hành của Lê Huy Mậu là cuộc
đi từ muôn đến một, là hành trình tự ngộ, hành trình trở về bản ngã của mình;
sau những phong sương, biến trải còn giữ được cái gốc nhân nghĩa của Con Người trước
mọi cám dỗ, trước thói hợm hĩnh, vụ lợi… tầm thường. Cùng với hành trình ấy là
giọng thơ khoáng đạt, “thời cuộc” hơn cả ở những vấn đề và giọng điệu, trong cấu
trúc linh hoạt, với những chiêm nghiệm, triết lý về nhân tình thế thái. Chỉ tiếc
là anh ham diễn giải, như sợ không nói hết được mình nên nhiều
bài thơ dài, dàn trải, “tận ngôn”, không còn yếu tố bất ngờ hay cái thú vị của
sự tự khám phá, tự thẩm thấu của người đọc.
Nhưng điều đó cũng chỉ là kỹ năng
thôi, cái lớn hơn, đáng giá hơn là nhà thơ đã đọc được vị của mình, như dù ở
chân trời góc bể nào anh cũng cảm được “mùi tổ quốc”, trong một thái độ bình thản,
tự tại trên hành trình thơ của ông: “Anh
thong thả nhâm nhi từng giọt sống/Gạn lấy vui trong vô số những buồn/Gạn điều
lành trong xô bồ ồn tạp/Gạn chút tình từ những thoáng mong manh…/Anh là sông đã
về gần tới bể/Khúc hạ lưu thanh thản nhả phù sa…”.
Hà
Nội, 28/7/2014
TQQ
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét