TRẦM TÍCH HOÀNG TRẦN CƯƠNG
Tôi quen Hoàng Trần Cương khá muộn. Khi Cương đã nổi đình đám với
trường ca “Trầm tích” .
Tôi gặp Cương lần đầu năm 2005, dịp đại hội nhà văn. Gặp trong cuộc
nhậu. Sau này thì quen, không thấy lạ nữa, chứ lúc mới đầu, hãi lắm. Cương có
vẻ ngoài nhìn rất “dữ tướng”. Bộ lông mày dài một cách khác thường. Gương mặt
xương xẩu, nhấp nhô như địa hình huyện Đô Lương quê Cương.
Không hiểu sao, dù Cương trông “dữ tướng”, “ăn sóng nói gió thế”,
nhưng tôi lại thấy mến mộ ngay. Bấy giờ, Cương đang là Tổng Biên tập tờ Thời
báo Tài chính. Tôi gặp Cương cũng do Nguyễn Trọng Tạo. Vừa có cái “ Khúc hát
sông quê” dính với Nguyễn Trọng Tạo một chút, nên cũng không đến nỗi “ vô tăm
tích” trước Cương. Cương bảo: Mày hay thật, tao với Nguyễn Trọng Tạo uống với
nhau hết cả mấy chum rượu, mà lão có phổ thơ tao bài nào đâu. Mày gặp lão có
mấy ngày mà lão lại phổ được bài sông quê hay thế!
Sau lần
nhậu với nhau hôm đó, là quen. Chả cần biết hồ sơ lý lịch, chả cần biết quá khứ
, tương lai của nhau, cứ thế là quen, và thân nhau lúc nào không biết! Thực ra,
tôi đọc thơ Hoàng Trần Cương nhiều rồi. Thơ Cương có cái cồn xoáy tâm cảm. Hắn rất biết cách diễn tả cái bên trong, cái
“cồn xoáy ” nội tâm thành ngôn ngữ, hình ảnh. Tôi thuộc thơ Cương không được
nhiều, nhưng, đọc Cương thì thấy, Cương không chỉ hay ở một vài câu, vài bài,
mà thơ Cương nói chung thường hay. Ít hay nhiều tùy bài, nhưng hay. Có nhiều
tác giả thơ, có vài câu xuất thần, hay, nhưng đọc một tập thì thấy, họ có thế
thôi đó. Tôi gọi những người hay như vậy là “hay lỏi”.
Nhân đây, cũng xin thưa một chút về quan niệm thơ của tôi. Tôi nhận
xét về Cương như vậy, là cũng cân nhắc, chứ không phải vì quý nhau mà khen vống
lên. Trước hết, tôi quan niệm, thơ là thứ được viết ra từ nội tâm. Nội tâm phải
đầy, phải tràn trước đã. Phần sau mới đến ngôn ngữ, mới đến cấu trúc, tổ chức,
diễn đạt, vv… Và tôi thấy, hình như cái logic nội tại của nghệ thuật ngôn ngữ,
nó được cấu trúc từ bên trong, từ trước đó, chứ không phải là tới khi nhà thơ
“làm” thơ, “nghĩ” thơ mới có. Nhà thơ Tùng Bách, lúc bia rượu, hay mỉa mai những nhà thơ “vườn” là, lại
“đặt” được bài thơ mới rồi à?
Khi đọc Hoàng Trần Cương thì
thấy, Cương không “đặt” thơ, Cương chỉ “quằn quại” với chữ nghĩa, nhằm diễn tả
cái “đầy”, “cái tràn”, cái “cồn xoáy tâm cảm” của mình sao cho chuẩn xác nhất
mà thôi. Sau này, uống rượu với Cương nhiều lần, tôi thấy, nhận xét của mình về
Cương là khá chính xác. Cương đọc thơ vất vả như đi cày. Nguyễn Trọng Tạo bảo
Cương “nạt” thơ chứ không phải đọc thơ. Thường rượu vào Cương hay “nạt” thơ.
Cương muốn người khác phải chăm chú nghe thơ mình. Cương sợ, những chữ, những
câu mà Cương bỏ cả “tim óc, gan ruột”ra để viết, “quằn quại” lắm mới tìm được
cách diễn đạt thích hợp, ưng ý lại bị
người nghe hững hờ, bỏ sót.. Lúc đọc
thơ, mới thấy, với Cương, thơ không phải chỉ là thú vui, là trò chơi chữ, mà là
một thứ gì đó thiêng liêng và nghiêm túc lắm!
Cá tính
sáng tạo, nhiều khi không tương thích với cá tính trong sinh hoạt, cá tính
trong đời sống. Tôi thấy, nhiều nhà văn, mà đơn cử như nhà văn quá cố Nguyễn
Đức Thọ chẳng hạn. Sinh thời, tôi có nhiều dịp đi lại, chơi bời với Nguyễn Đức
Thọ. Trong đời thường, Thọ có vẻ hời
hợt. Nhiểu lúc, tôi nghĩ hắn là thằng “phổi bò”. Nhưng khi đọc văn hắn thì khác
hẳn. Hắn sâu sắc và là một trong những ngòi bút bình tĩnh đến từng chi tiết.
Hoàng Trần Cương cũng vậy. Hoàng Trần Cương trong các cuộc nhậu là một Hoàng
Trần Cương hoàn toàn khác với Hoàng Trần Cương trong thơ. Tôi đồ rằng, Cương
phải tĩnh tâm lắm mới có thể tìm nhặt được trong trầm tích tháng năm quá khứ
những hóa thạch quý của niềm đau, nỗi khổ làm nên mình, làm nên văn hóa của quê
hương mình. Không bỏ sót, cũng không nhặt ẩu. Chỉ riêng điều ấy thôi, nếu nóng
nảy, vội vàng không làm được. Còn nhớ, có lần, tôi ra họp, ngủ cùng phòng với
nhà thơ Văn Công Hùng. Cương rủ đi nhậu. Tôi rủ Văn Công Hùng cùng đi, nhưng
dặn : Mày nhớ nhé, Hoàng Trần Cương nói gì, mày đừng cãi. Hắn tốt lắm nhưng dễ
nổi nóng. Cãi nhau nhậu mất vui. Văn Công Hùng bảo: Gớm! bác lại còn phải dặn.
Em lạ gì tính bác Cương nữa!
Cương không những chỉ nổi
tiếng về thơ, mà Cương nổi tiếng cả về cái sự “khó lường” khi rượu vào. Có
điều, những người quen Cương rồi thì thấy, Cương rất hiền, Cương chỉ “nóng bậy”
một chút thôi, xong thôi, không để bụng giận dỗi ai bao giờ.
Tôi và Cương cùng tuổi, cùng quê Nghệ an. Huyện tôi và huyện Cương
ngày xưa có chung một trường cấp ba. Có chung một bệnh viện . Khoảng cách về
đĩa lý chừng độ 10 ki lô mét, nhưng khoảng cách về văn hóa thì gần như bằng
không. Đọc thơ Hoàng Trần Cương thấy gần
gũi, quen thuộc như là Cương viết cho cả
nỗi niềm mình.
Cái nón mê mẹ đội nửa đời người
Khi thủng chóp mẹ đội lên vại nhút.
Nhiều lắm, những câu thơ Hoàng Trần Cương khiến tôi có cảm giác như
hắn là một nhà “ Nghệ An học” bằng thơ xuất sắc nhất của Nghệ An. Nhà phê bình văn học Thái Doãn Hiểu đã kỳ
công ngồi nhặt ra những câu thơ hay của Hoàng Trần Cương. Phải đến mấy chục câu
đặc sắc, mà phần nhiều trong số đó là viết về quê hương Nghệ An. Tôi không tiện
nhắc lại. Tôi chỉ muốn nói thềm rằng, nếu tách phần thơ viết về Nghệ An và Miền Trung, sẽ không còn hồn cốt thơ Hoàng
Trần Cương nữa.
Ám ảnh về tuổi thơ, về quá khứ
nghèo khổ, cùng với những đặc trưng văn hóa rất riêng biệt của nông thôn Xứ
Nghệ nửa sau thế kỷ hai mươi là diện mạo
tinh thần chủ yếu trong phong cách thơ Hoàng Trần Cương. Khi viết những dòng
này, tôi bỗng nảy ra cái ý, phải chăng, với các nhà văn, xuất thân từ những
vùng quê càng khắc nghiệt về điều kiện
tự nhiên bao nhiêu , càng cằn cỗi về điều kiện thổ nhưỡng bao nhiêu thì
mảnh đất dành cho sáng tác của họ lại càng màu mỡ bấy nhiêu. Nói cách khác, nơi
con người phải căng ra, phải trui rèn cả
về trí lực lẫn sức lực để chống chọi với hoàn cảnh sống để tồn tại, thì chính
nơi đó, văn chương được hưởng lợi từ thực tế sống để viết. Những trải nghiệm sống đến một lúc nào đó, nó trở
thành một nhu cầu viết, nhu cầu được giải tỏa, nhu cầu được chuyển tải thành
những tác phẩm văn chương. Nhà thơ Hữu Thỉnh, trong một bài phát biểu, trong
hội nghị quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài, có nhắc lại câu nói nổi tiếng
của Gớt, rằng, trí tuệ phát triển trong tĩnh lặng, nhưng tính cách hình thành
trong bão táp. Người Nghệ, chất Nghệ, tính cách Nghệ có lẽ cũng được hình thành
trong “ bão táp” của lịch sử và của thiên nhiên khắc nghiệt này chăng? Hoàng
Trần Cương đã không ít lần thành công khi chuyển tải được những trải nghiệm về
cái đói, cái nghèo khổ của chính mình, của quê hương mình vào những câu thơ hay
một cách nhức nhối lòng người, như:
Chỉ
gió bão là tốt tươi như cỏ
Không
ai gieo cũng mọc trắng mặt người
Miền
trung mỏng mà sắc như cật nứa
Chuốt
ruột mình thành giải lụa sông Lam.
Công bằng mà nói, phần thơ viết về quê hương, về miền Trung của Cương
nổi trội hơn, ám ảnh hơn, nhưng, sẽ không đầy đủ, nếu bỏ sót chất lãng mạn, trữ
tình trong thơ Cương. Tôi nhớ mãi, cảm giác lần đầu khi đọc chùm thơ được giải
của Hoàng Trần Cương in trên báo Văn Nghệ. Bài “ Dấu vết tháng ngày” làm tôi
sững sờ, bâng khuâng, tôi thích hơn cả bài Miền Trung :
Mỗi ngày tôi để lại
vài vệt nắng trong mắt người thương nhớ
Giọt mồ hôi rơi cuối buổi chiều
Sợi tóc bạc hai đứa nhìn tiếc nuối
Đôi nét buồn thổi lạnh mặt người yêu
Năm tháng tạnh dần - mưa xối nắng thiêu
Đêm trong, ngày đục
Thác bỗng dựng ở nơi không gấp khúc
Bợt bạt mặt người trong cơn giông...
Mỗi ngày tôi để lại một vạt lo âu, một miền khắc khoải
Nơi lưỡi cày vừa mới đi qua
Chiều đứng lặng nghe tiếng người cuối bãi
Trăng lại treo mơ mộng trước hiên nhà...
Giọt mồ hôi rơi cuối buổi chiều
Sợi tóc bạc hai đứa nhìn tiếc nuối
Đôi nét buồn thổi lạnh mặt người yêu
Năm tháng tạnh dần - mưa xối nắng thiêu
Đêm trong, ngày đục
Thác bỗng dựng ở nơi không gấp khúc
Bợt bạt mặt người trong cơn giông...
Mỗi ngày tôi để lại một vạt lo âu, một miền khắc khoải
Nơi lưỡi cày vừa mới đi qua
Chiều đứng lặng nghe tiếng người cuối bãi
Trăng lại treo mơ mộng trước hiên nhà...
Khám phá và sáng tạo luôn là đòi hỏi khắt khe của các tác phẩm văn
học. Hiện thực được nhắc đến trong thơ cùng lúc phải thỏa mãn đòi hỏi chi tiết,
nhưng là chi tiết khái quát, chi tiết bản chất. Hay nói cách khác, cái gọi là “
tài năng” của nhà thơ chính là khả năng sáng tạo sao cho chi tiết và
khái quát thống nhất và tôn cao nhau trong một tác phẩm. Bài “ Dấu vết
tháng ngày” của Hoàng Trần Cương thoạt thì không có gì xa lạ, trong hình thức,
trong nội dung, nhưng đọc xong thì thấy có dư vị nhân văn thật sâu sắc.
Nhà lý luận phê bình Nguyễn Đăng Điệp, trong tiểu luận “Hoàng Trần
Cương- Trầm tích của đất” nhận xét: Hoàng Trần Cương viết về miền Trung bằng
chất giọng miền Trung, diễn tả tâm hồn Xứ Nghệ bằng chính cái nhìn riết róng của Xứ Nghệ, đó là
nét độc đáo của Hoàng Trần Cương trong quá trình tạo dựng cái nhìn nghệ thuật
của riêng ông”.
Những nón mê, vại nhút, chõng tre, chảo rang, sanh đồng sứt quai,
khoai xéo, ngô dặt, mo nang, nùn rơm… vào thơ Hoàng Trần Cương đã trở thành
những “hóa thạch” quý hiếm. Hoàng Trần Cương không ôn nghèo kể khổ, hay ít nhất
cái ý đó cũng không lộ rõ trong thơ. Cái thấm thía trong thơ Cương chính là,
thông qua những chi tiết đời sống Xứ Nghệ để
“diễn tả tâm hồn Xứ Nghệ bằng chính cái nhìn riết róng của Xứ Nghệ”như
nhận xét của Nguyễn Đăng Điệp.
Bạn bè văn nghệ, tôi nghĩ, muốn chơi với nhau, là phải từ hai phía.
Trước hết là quý nhau về văn thơ. Sau đó là đến với nhau bằng chính “ chất
người” của nhau. Nhớ năm tôi vừa miệt mài viết xong trường ca “Thời gian khắc
khoải” của mình. Đang hưng phấn thì đọc được trường ca “Trầm tích” của Hoàng
Trần Cương. Tôi thấy “Trầm tích” của Cương hay quá. Nể phục hắn quá. Nhìn lại
trường ca của mình, tự dưng thấy cụt hết cả hứng. Tuy hoàn cảnh sự kiện khác
nhau, nhưng tôi cũng một mạch cảm hứng từ quê, từ mình, từ “thời gian khổ”chiến
tranh, từ được mất thành bại kiếp nhân sinh
mà hát lên. Nhưng, “Trầm tích” có độ “cồn xoáy tâm cảm” nhiếu hơn. Ám
ảnh hơn. Sau đó, tôi dẹp cái trường ca của mình vào góc tủ. Khi Nguyễn Trọng
Tạo vào Vũng Tàu dự trại sáng tác âm nhạc, tôi mới rụt rè gửi Nguyễn Trọng Tạo
một chương ra Hà Nội in báo. Và Nguyễn Trọng Tạo đã từ chương này, chương “Khúc
hát sông quê” mà viết thành ca khúc. Chính là bài hát có trước. Sau bài hát khá
lâu, báo Văn Nghệ mới in bài thơ đầy đủ. Và Hoàng Trần Cương cũng yêu bài hát ấy trước rồi mới đọc vào
nguyên tác bài thơ. Một lần, tôi đang đi bộ thể dục trên sườn núi Lớn, bỗng
nhận được điện thoại của Cương : Này M, cái câu “ Vời vợi tuổi thơ một xu bánh
đa vừng” của mày quá hay, tao càng ngẫm càng thấy hay, lão Tạo lão tài thật,
lão chỉ rút tỉa bài thơ thành mấy câu hát, thế mà làm xao xuyến hết tất cả, mày
ạ!
Nhà thơ Bùi Hoàng Tám, một bạn rượu khá try kỷ của Cương có bài viết
trên báo Dân trí, đọc Tám, tôi mới biết, Cương là đứa con của ba dòng sông: Sông Lam, Sông Hồng và sông Cầu.
Cương sinh ra ở làng Đặng Lâm, xã Đặng
Sơn, Huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An nhưng lên 7 tuổi, Cương theo bố ra Hà Nội học
tiểu học. Sang cấp II, lại quay về học ở làng Đặng Sơn, và 3 năm sau đó
lại ra Quế Võ, Bắc Ninh, nơi có con sông
Cầu của các làng Quan họ để học cấp III. Như vậy, tính ra, bảy tuổi cọng ba
năm, Cương chỉ có tất cả là mười năm tuổi trẻ ở quê, ấy vậy mà dòng sông Lam ám
vào thơ Cương thật sâu sắc. Phải chăng, vì tuổi thơ Cương có đến ba dòng sông,
nên Cương mới có cái để đối sánh. Trong mối quan hệ đối sánh đó, sông Lam trở
nên rõ nét hơn chăng?
Cương rủ tôi cùng về Nghệ An,
thuê một chiếc đò dọc, ngao du và uống rượu trên dòng sông quê hương. Đó là một
ý tưởng đẹp, rất thơ mộng, nhưng đến nay, tôi và Cương vẫn chưa thực hiện được!
Cùng uống chung một dòng nước.
Cùng có một tuổi thơ gắn bó với sông Lam. Tôi và Cương, là tôi vơ vào thế, đã
ẩn mình vào trong dòng sông quê, và ít nhiều, tôi và Cương đã hát lên được chút
gì đó về nỗi lòng mình trước dòng sông Lam quê hương “vời vợi tuổi thơ một xu
bánh đa vừng!”./.
Vt
16/4/2015
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét