Tôi đã gặp nhà thơ Nguyễn Duy nhiều lần. Nhưng lần
nào cũng ở chỗ đông người. Nguyễn Duy chỉ có một, mà người quen thân Nguyễn Duy
thì lắm. Và người muốn quen Nguyễn Duy cũng lắm. Do vậy, thường thì tôi cũng
chỉ được nghe Nguyễn Duy nói chuyện, đọc thơ giữa đám đông. Lần may mắn nhất,
là lần, sau cuộc họp, tôi được ngồi xe, đi nhậu cùng Nguyễn Duy. Nhậu tá lả,
xong về nhà Phạm Văn Đoan, thuở Phạm Văn Đoan còn ở nhà tập thể cơ quan vợ. Nền
nhà Phạm Văn Đoan không lấy gì làm sạch sẽ cho lắm, vậy mà Nguyễn Duy “ngọa”
xuống nền nhà, hồn nhiên như đấy là giường khách sạn vài sao. Không còn phân
biệt được đâu là ông nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Duy và đâu là ông nhà quê Nguyễn
Duy tuế tóa, xuề xòa, chơi được với đủ mọi thứ người “thượng vàng, hạ cám” của
cõi đời này.
Trông Nguyễn Duy nhỏ thó nằm bệt giữa nền nhà gạch bông của
Phạm Văn Đoan, tôi chợt nghĩ, hình như tầm vóc văn hoá, tư tưởng, tinh thần của
con người ta thường tỷ lệ nghịch với tầm vóc cơ thể của họ chăng? Tôi nhớ mãi,
có lần, cô Cao Thái Bình - một cán bộ lịch sử Đảng cơ quan tôi kiên quyết
không tin Nguyễn Duy là Nguyễn Duy. Phạm Văn Đoan khi ấy chẳng có cách gì chứng
minh được Nguyễn Duy là Nguyễn Duy, nên, phải đến khi tôi đứng ra chứng
thực, những hình dung mà cô Cao Thái Bình kể - (mặc dầu, để thuyết phục tôi công
nhận là cô đúng, cô đã hơi “bé nhỏ hoá, nhà quê hoá” nhà thơ Nguyễn Duy) rằng
chính xác đó là nhà thơ Nguyễn Duy. Thì ra ông Nguyễn Duy trong tâm tưởng
bạn đọc cao lớn hơn ông Nguyễn Duy thực, ngoài đời.
Tôi đọc thơ Nguyễn Duy từ những năm bảy mươi của thế kỷ
trước. Cũng là thơ chống Mỹ cứu nước, nhưng ngay từ hồi đó, thơ Nguyễn Duy đã
khác lắm. Trong lúc thơ chống Mỹ của Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng
Nhuận Cầm, Trần Mạnh Hảo v.v... là thơ trực tuyến nóng hổi, thì thơ chống Mỹ
của Nguyễn Duy chỉ là thứ thơ “gián tiếp” với chiến trường, chiến đấu, chiến
tranh. Đó là “Hơi ấm ổ rơm”. Đó là “Bát nước ngô của bà mẹ Việt ở Quảng Trị”.
Đó là “Cây tre Việt Nam ”...
Ngay như bài “Bầu trời vuông” viết giữa chiến trường cũng là bài viết về
phút yên tĩnh trong chiến tranh. Cái sáng tạo, cái phát hiện mới mẻ trong thơ
Nguyễn Duy cũng chỉ nằm gọn trong cái “truyền thống”. Thơ Nguyễn Duy là thơ làm
phong phú, sinh động và lấp lánh thơ truyền thống. Vậy mà, công bằng mà nói,
thơ Nguyễn Duy “sáng láng” trong tốp mười, thậm chí là trong tốp năm của thơ
chống Mỹ, trong cách chọn của nhiều người.
Tôi có một bạn thơ làm dầu khí, đã mất rồi, tên là Trương
Xuân Hoàng. Một lần tôi đến nhà Hoàng chơi, thấy Hoàng đang ngồi một mình với
chai rượu, trước mặt là tập thơ mới xuất bản của Nguyễn Duy. Hoàng bảo tôi: Anh
xem này, thơ của em có thua kém gì thơ Nguyễn Duy đâu! Anh đọc thử xem! Tôi
chẳng biết nói gì! Thơ Nguyễn Duy không làm người khác thấy sợ, phải vòi vọi
ngước lên, mà là làm cho mọi người có cảm giác mình cũng làm được thế... Ngày
ấy, Hoàng mê thơ lắm, và luôn khao khát làm mới, làm lạ thơ mình. Nhiều nhà thơ
cũng có chung khát khao ấy và họ đi tìm tòi sự mới lạ. Nguyễn Duy cũng đi tìm
sự mới lạ, nhưng là người lặng lẽ đi tìm cái mới lạ trong cái thông thường,
trong “bụi nhân sinh” của cuộc đời này, và dần dà người ta nhận ra thơ
Nguyễn Duy “trong quen thấy lạ”. Và tôi thấy, hình như người ta thuộc,
người ta nhớ thơ Nguyễn Duy hơi bị nhiều...
Sau chống Mỹ, trong lúc các nhà thơ chúng ta có xu hướng
tập trung sức làm trường ca sử thi: Hữu Thỉnh viết “Đường tới thành phố”,
Nguyễn Đức Mậu viết “Sư đoàn”, Trần Mạnh Hảo viết “Mặt trời trong lòng đất”,
Nguyễn Trọng Tạo viết “Con đường của những vì sao”, Thi Hoàng viết “Gọi
nhau qua vách núi” v.v.. . Cùng với những trường ca “Bài ca chim chơrao” của
Thu Bồn và “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm viết trước đó,
những tập trường ca viết trong và sau chống Mỹ thực sự đã tạo được dấu ấn
đậm nét trong lòng độc giả. Nguyễn Duy không xuất bản tập trường ca nào. Sau
giải phóng, cứ vài năm, anh lại xuất bản một tập thơ. Năm 1984 là tập “Ánh
trăng”. Năm 1987 là tập “Mẹ và em”. Năm 1989 là “Đường xa”. Năm 1990 là “Quà
tặng”. Đến năm 1994, với tập “Về”, Nguyễn Duy tuyên bố là thôi, không làm thơ
nữa. Sau này, trong một bài phỏng vấn, anh giải thích là “thơ bỏ tôi”.
Nguyễn Duy “Về” có nhiều lí do. Nhưng, trước lúc về, nhiều người biết, trong
những tập thơ “hiền từ” vừa kể trên, Nguyễn Duy đã viết, đã để lại ba bài
thơ dài là: “Đánh thức tiềm lực”, “Nhìn từ xa Tổ quốc” và “Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ”. Có vẻ như việc xuất bản những bài thơ “nỗi niềm” như của Nguyễn Duy bây
giờ là bình thường, nhưng hồi đó, in những bài thơ “nặng đô” như vậy là can đảm
lắm.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Nguyễn Duy thường “khuất
lấp” đâu đó. Anh thoắt ẩn, thoắt hiện trong đời sống cũng như trên văn đàn. Khi
thì nghe tin anh cùng bạn bè đang xuyên Việt đi tìm hiểu văn hóa Việt. Khi thì
nghe tin Nguyễn Duy đang du kí Tây Âu. Làm triển lãm thơ Việt ở Hoa Kỳ. Khi lại
nghe tin Nguyễn Duy đang ở Pháp, lần hồi theo dấu tích ba ông vua lưu đày ở đảo
Réunion. Rồi Nguyễn Duy xuất bản thơ về Thiền. Nguyễn Duy làm lịch thơ.
Nguyễn Duy triển lãm ảnh in trên giấy dó v.v… Một Nguyễn Duy phong phú, đa dạng
và sáng tạo như vậy có họa là “bị thần kinh” mới không mong được gặp, được uống
rượu cùng.
*
* *
Khác với lần gặp Nguyễn Duy tại buổi họp mặt nhân kỉ niệm
55 Nhà xuất bản Văn học tại Sài Gòn. Lần ấy, Nguyễn Duy vừa bị tai nạn té xe
“trong chân đang có thép”. Trông Nguyễn Duy hom hem gầy yếu lắm. Anh bảo có nhớ
tôi nhưng không liên hệ được tên tôi và cái mặt tôi. Lần này, vừa gặp nhau
là nhớ ngay. Lại còn bắt tay, hỏi han vồn vã nữa. Tôi trông thần sắc Nguyễn Duy
thấy “vượng” hẳn. Anh bảo, anh vừa từ Ấn Độ về. Đang làm cái gì đó về thiền
Việt bên Ấn Độ. Sắp tới lại sang Nêpan tìm hiểu về Phật học...
Một cách vui vẻ và tự nguyện, Nguyễn Duy đọc liền một lúc 3
bài thơ dài “gai góc” của anh; lại hát một bài xẩm - bài mà anh đã từng hát tại
Hội trường Ba Đình trong Đại hội nhà văn; lại đọc một bài vè về “Đại hội Nhà
văn bốn”...
Thơ
“thế sự” của Nguyễn Duy bạo liệt, chân thành và sâu sắc. Tôi vốn xuất thân là
cán bộ Tuyên giáo, không thích thơ “thế sự”, không thích thơ “chống tiêu cực”.
Nhưng khi nghe thơ Nguyễn Duy, tôi phải mạnh dạn mở ngoặc trừ thơ “thế sự” của
Nguyễn Duy.
Với thơ ca, mỗi người một quan niệm, chẳng ai giống ai. Vẫn
biết, thơ hay không cứ là viết về đề tài gì. Nhưng mỗi bài thơ đều có một đích
nhắm. Đích nhắm là con “chim sẻ” thì phải dùng “súng hơi thơ”. Đích nhắm
là chiếc “xe tăng”, “cái lô cốt” thì phải là “trọng pháo thơ”.
Thời nào cũng vậy, luôn có một dòng thơ công dân. Tuy không
phải lúc nào nó cũng được bảo chứng bằng pháp luật, bằng dư luận chính thống.
Nhưng lúc nào nó cũng được trân trọng, gìn giữ trong trái tim, khối óc của nhân
dân. Nó được sàng lọc và tồn tại qua nhiều sự biến thiên của thời thế.
Nguyễn Duy kể rằng, vào những năm 1980, giữa lúc thành phố
cũng như đất nước khó khăn bộn bề, ông bắt đầu bài thơ “Đánh thức tiềm lực”
bằng những ray rứt của người lính sau chiến tranh, của nhà thơ đa cảm và của cả
một thường dân trước gánh nặng kinh tế gia đình. Bài thơ tượng hình từng chút
một, đến năm 1982 thì hoàn thành. Ông Võ Văn Kiệt, bấy giờ là Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đã lắng nghe trọn vẹn bài thơ “Đánh
thức tiềm lực” của Nguyễn Duy. Sau một lúc im lặng, ông chỉ bảo “Nặng lắm!
Nhưng chịu được”. Sau “Đánh thức tiềm lực”, Nguyễn Duy viết tiếp “Tổ quốc nhìn
từ xa” và “Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ”. Ba bài thơ dài này của Nguyễn Duy hợp
lại, có thể đại diện được cho “thế giới quan - nhân sinh quan” của thi sĩ
Nguyễn Duy. Một học giả, tôi không tiện nhắc tên, gọi thơ Nguyễn Duy là “lương
tâm thời đại”. Có thể, đấy chỉ là một nhận xét cá nhân, nhưng ít nhiều nó cũng
“gợi” một cách nhìn về “tầm vóc” các nhà thơ.
Sẽ còn rất sớm để rút ra một điều gì. Và, cũng không nên
rút ra một điều gì.
Trật tự và hỗn độn chỉ là sự phân biệt tương đối và ngay cả
hỗn độn cũng có lí thuyết của nó.
Chia tay Nguyễn Duy, tôi cứ bâng khuâng mãi. Có thể, giờ
này, trong khi tôi đang viết bài này, Nguyễn Duy đang lang thang đâu đó trên
đất Phật “Tây Trúc”. Phải chăng, ngược với số đông, Nguyễn Duy đang bươn bả,
lặn hụp với quá khứ - quá khứ văn hóa dân tộc và quá khứ văn hóa của nhân loại,
để nhặt ra trong đó những “bụi vàng” văn hóa đang bị sương khói thời gian che
khuất. Không hiểu sao, tôi như thấy, Nguyễn Duy cũng đại diện cả cho mình,
trong mọi cuộc tiếp xúc văn hóa với rộng dài nhân thế.
Vũng Tàu, 8/2008
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét