Nguyễn Thanh Xuân
Chuyến dự trại sáng tác tại Vũng Tàu năm 2011, tôi gặp nhà thơ Lê Huy Mậu. Anh tặng tôi tập thơ Bốn giọt nước, trong đó có Khúc hát sông quê do Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc-một ca khúc thấm vào lòng những người xa xứ. Từ lâu, tôi đã yêu mến. Giờ gặp tác giả, được đọc nguyên bản bài thơ nên thích thú muốn chia sẽ chút cảm nhận của riêng mình. Quả thực, 30 bài thơ trong tập này mang nỗi khắc khoải âu lo và những chiêm nghiệm về cõi đời mênh mông của một người đa cảm, từng trải và tha hương.
Ở Thanh Chương, Nghệ An, có giống chè thơm ngon đậm đà. Nó sinh trưởng trong khí hậu khắc nghiệt, trên đồi đá cuội cằn khô nên lá nhỏ, dày và hơi cứng. Nhìn thì không ngon nhưng om lên nước vàng thơm, uống vô rất sảng khoái. Con người và thơ của Lê Huy Mậu giản dị, chân chất mà đằm thắm như cây chè mọc trên đồi đá cuội! Chất người nhà thơ không hợp với phố xá ồn ào buôn bán bon chen, không hợp với lối sống đua tranh tiền quyền. Trong Tự bạch, anh nhận mình là “vụng về”, “khờ khạo”, thấy “chóng mặt” trước những xô bồ chộp giật. Anh chọn: “ Nếp sống của ông cha. Kiệm cần và nhẫn nhịn”. Người sao thì thơ vậy. Ngôn ngữ và nhịp điệu cảm xúc bao trùm là chân mộc, chậm rãi và lắng sâu.
Chính từ điệu thơ như thế nên anh viết rất ấn tượng về quê hương và mẹ. Mà là quê miền trung “gió bụi cát bay lẫn trong sữa thơm mẹ nuôi tôi lớn” chứ không phải quê mẹ chung chung. Hình ảnh đứa trẻ ngồi ngóng mẹ đi chợ về để có cái bánh đa vừng xua bớt sự cồn cào ngày giáp hạt, bầy trâu và lũ trẻ tắm sông đã thấm ngay vào gan ruột mọi người…
Khi đọc văn bản “Thời gian khắc khoải”, tôi thấy khác với bài “Khúc hát sông quê”. Bài hát phóng tác, đơn giản hoá để hợp với nhạc và chủ yếu nhấn vào ký ức tuổi thơ. Còn bài thơ mang cảm xúc chủ đạo là: nỗi khắc khoải tiếc nuối khôn nguôi về một thời đã trôi vào quá vãng:
“Trong ký ức ta sao ngày xưa yên ổn quá chừng”…
Nếu kết với bài “Tìm”: “Tuổi thơ ơi! Làm sao về lại được?” thì sẽ hiện lên nỗi khắc khoải của nhân vật trữ tình. Ở đây hàm ý so sánh giữa xưa và nay. Cái tươi đẹp yên bình xưa, nay đã mất rồi. Mẹ không còn nữa. Sông cũng không xanh trong nữa. Người ta không giữ “lời non nước”:
“Chẳng biết ta ăn ở thế nào với đất mà đất lở sông ơi!”
Không thân thiện hòa hợp với thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, nên cái đẹp tiêu tan! Xưa nghèo nhưng hòa hợp: “con cá cùng ăn”, “con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt”, cùng cây cải tươi “ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật”…Con người giờ thay lòng đổi dạ, dẫm đạp thiên niên, vơ hết cho mình. Nỗi đau xót là đó! Vì vậy, sông quê hồn vía bay rồi. Không phải sông thật đâu. Mà là dòng xanh chảy trong ký ức, chỉ còn trong hoài niệm, chỉ còn trong tâm tưởng…Tiếng thơ là lời cảnh tỉnh con người xem lại cách “ăn ở với đất”?
Chính sự nhạy cảm và tha hương đã làm nên hồn thơ Lê Huy Mậu. Nhờ sự thiệt thòi cô lẻ, thiếu lửa ấm tình quê mà anh “trĩu trịt”, da diết và phát hiện được tứ thơ độc đáo. Thời khắc ba mươi tết, nhà nhà hội tụ quây quần quanh mâm cơm cuôi năm cũng là lúc kẻ phiêu dạt thấm thía cô đơn nhất! Tôi chỉ muốn nói đến cảm giác cô đơn, âu lo, sự tiên cảm của anh trong thời bình nhưng thân phận con người chưa bình an. Đó là chính lòng nhà thơ: “Khép cửa một mình hun hút vắng. Một mình riêng một cõi xôn xao”. Sau tiệc ồn ào phải đối mặt với đêm dài “cô lẻ một phòng thơm”. Đó là lo lắng phập phồng khi con lên thành phố, sơ dính cạm bẫy bạch cốt tinh mang gương mặt giai nhân, Bây giờ cái ác lộng hành, thói hèn nhát vô cảm, vô trách nhiệm đầy ra đấy thì nỗi lo này là tiên đoán hiển hiện. Kẻ thù vô hình trong chính ta. Kẻ hại ta có khi lại người thân quen ta chẳng cảnh giác đề phòng…Trong bài “Trước bờ đêm”, anh viết:
“Nhiều cái chết đến khi đang còn sống
Xác tin yêu táng chật trong hồn”
Đây chính là tâm trạng thời thế bây giờ. Có cái gì đang vỡ ra xót xa tận đáy lòng ta! Người tốt bị cô đơn như cô Tấm bé nhỏ phải bất khóc trước mẹ con dì ghẻ…Tôi đồng cảm cúng anh điều này. Nhiều khi mình sợ tưởng như vô lý, chẳng biết làm gì! Vậy có yếu đuối quá chăng? Cũng chính tâm trạng này mà ta khao khát tìm về với mẹ, với quê hương? Ta hay mơ tưởng làm thơ cho vơi bớt âu lo. Làm thơ để tìm tri kỷ nương tựa nhau. Thơ như ngọn lửa sưởi ấm lòng ta trước giá lạnh cõi đời xa xứ…
Một điểm nổi bật trong tập thơ này là những chiêm nghiệm triết lý cõi nhân sinh. Hình như ở cái tuổi lục tuần, vốn sống, trải nghiệm sướng giá, bão giông đủ thời gian để kết tinh thành hoa trái trí tuệ, thành thi ca. Điều này thể hiện qua những bài như: Bốn giọt nước, Thăm bão tàng Chăm, Bận rộn, Trước thu, Ngày bình thường, đặc biệt qua hai bài thơ văn xuôi là “Tự vấn” và “Gửi”.
Giữa biển nước bao la, Lê Huy Mậu “vốc” chỉ có bốn giọt thôi: giọt mồ hôi lao động, giọt nước mắt khổ đau chia sẽ cùng nhau, giọt trí thức trí tuệ tài năng và giọt yêu thương như thuốc thần cho trái đất mãi xanh cho loài người hạnh phúc. Thi nhân góp cho đời trí tuệ và tình yêu. Thế là tốt rồi. Thế là quá “bận rộn” rồi. Vì mắc nợ trần gian như chúa Chỗm rồi! Nên anh nói: “và thế là tự quẫy gánh càn khôn…!”. Tản Đà thì bảo nhà thơ: “Trời định sai con một việc này. Là việc “thiên lương” của nhân loại”. Khoa học kỹ thuật đang nhãy vọt. Nhưng biết đâu cái nhân văn sức khoẻ tinh thần đang thụt lùi? Cánh thi nhân “cỏ may”, tỉnh lẻ bé nhỏ có thể góp chút súc ngăn sự thút lúi này lại chăng?
Tôi tâm đắc hai bài thơ văn xuôi “Tự vấn” và “Gửi” của anh. Không thể nói nhiều. Chỉ nói về “giấc mơ” thôi. Nhà khoa học và nhà văn đều sống nhờ giấc mơ cả. Ông cha xưa phát hiện ra âm-dương, siêu hình và hữu hình. Bây giờ khoa học phát triển khám phá ra cái xưa là vô hình thì nay đã là hữu hình. Với giấc mơ cũng vậy. Ai giàu trí tuệ, nhạy cảm tiên đoán tốt thì chính là hiện thực, là hiện hình xương thịt. Nó là phần ẩn, bí mật trên đời mà người thường không có được.
Trời lấy đi của thi nhân nhiều thứ nên bù lại bằng những giấc mơ. Giấc mơ chắp cánh cho tiếng thơ. Tôi thích giấc mơ của Lê Huy Mậu. Trái tim và khối óc của anh là ở đó. Nó giúp anh sống sâu sắc, rộng mở hơn. Nó giải thoát ta ra khỏi cái tù túng, chật chội, bức bối của mưu sinh hàng ngày?
Những dòng thơ của Lê Huy Mậu, với tôi, cũng đậm đà như bát nước chè xanh xứ nghệ làm đỡ cơn khát của đứa con “quá nửa đời phiêu dạt”. Lời thơ sao cay cay, xon xót, chan chát nhưng lại đậm đà, lắng đọng tâm hồn.
Chuyến dự trại sáng tác tại Vũng Tàu năm 2011, tôi gặp nhà thơ Lê Huy Mậu. Anh tặng tôi tập thơ Bốn giọt nước, trong đó có Khúc hát sông quê do Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc-một ca khúc thấm vào lòng những người xa xứ. Từ lâu, tôi đã yêu mến. Giờ gặp tác giả, được đọc nguyên bản bài thơ nên thích thú muốn chia sẽ chút cảm nhận của riêng mình. Quả thực, 30 bài thơ trong tập này mang nỗi khắc khoải âu lo và những chiêm nghiệm về cõi đời mênh mông của một người đa cảm, từng trải và tha hương.
Ở Thanh Chương, Nghệ An, có giống chè thơm ngon đậm đà. Nó sinh trưởng trong khí hậu khắc nghiệt, trên đồi đá cuội cằn khô nên lá nhỏ, dày và hơi cứng. Nhìn thì không ngon nhưng om lên nước vàng thơm, uống vô rất sảng khoái. Con người và thơ của Lê Huy Mậu giản dị, chân chất mà đằm thắm như cây chè mọc trên đồi đá cuội! Chất người nhà thơ không hợp với phố xá ồn ào buôn bán bon chen, không hợp với lối sống đua tranh tiền quyền. Trong Tự bạch, anh nhận mình là “vụng về”, “khờ khạo”, thấy “chóng mặt” trước những xô bồ chộp giật. Anh chọn: “ Nếp sống của ông cha. Kiệm cần và nhẫn nhịn”. Người sao thì thơ vậy. Ngôn ngữ và nhịp điệu cảm xúc bao trùm là chân mộc, chậm rãi và lắng sâu.
Chính từ điệu thơ như thế nên anh viết rất ấn tượng về quê hương và mẹ. Mà là quê miền trung “gió bụi cát bay lẫn trong sữa thơm mẹ nuôi tôi lớn” chứ không phải quê mẹ chung chung. Hình ảnh đứa trẻ ngồi ngóng mẹ đi chợ về để có cái bánh đa vừng xua bớt sự cồn cào ngày giáp hạt, bầy trâu và lũ trẻ tắm sông đã thấm ngay vào gan ruột mọi người…
Khi đọc văn bản “Thời gian khắc khoải”, tôi thấy khác với bài “Khúc hát sông quê”. Bài hát phóng tác, đơn giản hoá để hợp với nhạc và chủ yếu nhấn vào ký ức tuổi thơ. Còn bài thơ mang cảm xúc chủ đạo là: nỗi khắc khoải tiếc nuối khôn nguôi về một thời đã trôi vào quá vãng:
“Trong ký ức ta sao ngày xưa yên ổn quá chừng”…
Nếu kết với bài “Tìm”: “Tuổi thơ ơi! Làm sao về lại được?” thì sẽ hiện lên nỗi khắc khoải của nhân vật trữ tình. Ở đây hàm ý so sánh giữa xưa và nay. Cái tươi đẹp yên bình xưa, nay đã mất rồi. Mẹ không còn nữa. Sông cũng không xanh trong nữa. Người ta không giữ “lời non nước”:
“Chẳng biết ta ăn ở thế nào với đất mà đất lở sông ơi!”
Không thân thiện hòa hợp với thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, nên cái đẹp tiêu tan! Xưa nghèo nhưng hòa hợp: “con cá cùng ăn”, “con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt”, cùng cây cải tươi “ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật”…Con người giờ thay lòng đổi dạ, dẫm đạp thiên niên, vơ hết cho mình. Nỗi đau xót là đó! Vì vậy, sông quê hồn vía bay rồi. Không phải sông thật đâu. Mà là dòng xanh chảy trong ký ức, chỉ còn trong hoài niệm, chỉ còn trong tâm tưởng…Tiếng thơ là lời cảnh tỉnh con người xem lại cách “ăn ở với đất”?
Chính sự nhạy cảm và tha hương đã làm nên hồn thơ Lê Huy Mậu. Nhờ sự thiệt thòi cô lẻ, thiếu lửa ấm tình quê mà anh “trĩu trịt”, da diết và phát hiện được tứ thơ độc đáo. Thời khắc ba mươi tết, nhà nhà hội tụ quây quần quanh mâm cơm cuôi năm cũng là lúc kẻ phiêu dạt thấm thía cô đơn nhất! Tôi chỉ muốn nói đến cảm giác cô đơn, âu lo, sự tiên cảm của anh trong thời bình nhưng thân phận con người chưa bình an. Đó là chính lòng nhà thơ: “Khép cửa một mình hun hút vắng. Một mình riêng một cõi xôn xao”. Sau tiệc ồn ào phải đối mặt với đêm dài “cô lẻ một phòng thơm”. Đó là lo lắng phập phồng khi con lên thành phố, sơ dính cạm bẫy bạch cốt tinh mang gương mặt giai nhân, Bây giờ cái ác lộng hành, thói hèn nhát vô cảm, vô trách nhiệm đầy ra đấy thì nỗi lo này là tiên đoán hiển hiện. Kẻ thù vô hình trong chính ta. Kẻ hại ta có khi lại người thân quen ta chẳng cảnh giác đề phòng…Trong bài “Trước bờ đêm”, anh viết:
“Nhiều cái chết đến khi đang còn sống
Xác tin yêu táng chật trong hồn”
Đây chính là tâm trạng thời thế bây giờ. Có cái gì đang vỡ ra xót xa tận đáy lòng ta! Người tốt bị cô đơn như cô Tấm bé nhỏ phải bất khóc trước mẹ con dì ghẻ…Tôi đồng cảm cúng anh điều này. Nhiều khi mình sợ tưởng như vô lý, chẳng biết làm gì! Vậy có yếu đuối quá chăng? Cũng chính tâm trạng này mà ta khao khát tìm về với mẹ, với quê hương? Ta hay mơ tưởng làm thơ cho vơi bớt âu lo. Làm thơ để tìm tri kỷ nương tựa nhau. Thơ như ngọn lửa sưởi ấm lòng ta trước giá lạnh cõi đời xa xứ…
Một điểm nổi bật trong tập thơ này là những chiêm nghiệm triết lý cõi nhân sinh. Hình như ở cái tuổi lục tuần, vốn sống, trải nghiệm sướng giá, bão giông đủ thời gian để kết tinh thành hoa trái trí tuệ, thành thi ca. Điều này thể hiện qua những bài như: Bốn giọt nước, Thăm bão tàng Chăm, Bận rộn, Trước thu, Ngày bình thường, đặc biệt qua hai bài thơ văn xuôi là “Tự vấn” và “Gửi”.
Giữa biển nước bao la, Lê Huy Mậu “vốc” chỉ có bốn giọt thôi: giọt mồ hôi lao động, giọt nước mắt khổ đau chia sẽ cùng nhau, giọt trí thức trí tuệ tài năng và giọt yêu thương như thuốc thần cho trái đất mãi xanh cho loài người hạnh phúc. Thi nhân góp cho đời trí tuệ và tình yêu. Thế là tốt rồi. Thế là quá “bận rộn” rồi. Vì mắc nợ trần gian như chúa Chỗm rồi! Nên anh nói: “và thế là tự quẫy gánh càn khôn…!”. Tản Đà thì bảo nhà thơ: “Trời định sai con một việc này. Là việc “thiên lương” của nhân loại”. Khoa học kỹ thuật đang nhãy vọt. Nhưng biết đâu cái nhân văn sức khoẻ tinh thần đang thụt lùi? Cánh thi nhân “cỏ may”, tỉnh lẻ bé nhỏ có thể góp chút súc ngăn sự thút lúi này lại chăng?
Tôi tâm đắc hai bài thơ văn xuôi “Tự vấn” và “Gửi” của anh. Không thể nói nhiều. Chỉ nói về “giấc mơ” thôi. Nhà khoa học và nhà văn đều sống nhờ giấc mơ cả. Ông cha xưa phát hiện ra âm-dương, siêu hình và hữu hình. Bây giờ khoa học phát triển khám phá ra cái xưa là vô hình thì nay đã là hữu hình. Với giấc mơ cũng vậy. Ai giàu trí tuệ, nhạy cảm tiên đoán tốt thì chính là hiện thực, là hiện hình xương thịt. Nó là phần ẩn, bí mật trên đời mà người thường không có được.
Trời lấy đi của thi nhân nhiều thứ nên bù lại bằng những giấc mơ. Giấc mơ chắp cánh cho tiếng thơ. Tôi thích giấc mơ của Lê Huy Mậu. Trái tim và khối óc của anh là ở đó. Nó giúp anh sống sâu sắc, rộng mở hơn. Nó giải thoát ta ra khỏi cái tù túng, chật chội, bức bối của mưu sinh hàng ngày?
Những dòng thơ của Lê Huy Mậu, với tôi, cũng đậm đà như bát nước chè xanh xứ nghệ làm đỡ cơn khát của đứa con “quá nửa đời phiêu dạt”. Lời thơ sao cay cay, xon xót, chan chát nhưng lại đậm đà, lắng đọng tâm hồn.
(Tháng chạp,2012 – Miền Tây nam Bộ)
N.T.X
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét