Lê Huy Mậu
Không biết kiếp trước có duyên nghiệp
gì với nhau không, mà bây giờ, giữa trời đất hỗn mang, vào đúng “thời mạt pháp”
của xứ sở đang trong cơn mê lú bùa ngãi tà thuật hoang đường thì bỗng gặp nhau.
Trong căn nhà gỗ, cột to như cột đình nhưng chưa cửa giả, còn trống hơ, trống
hoác được dựng trên phần đất hương hỏa nơi quê nhà Thanh Giang của lão, tôi gặp
lão lần đầu mà như không phải thế, như là gặp lại, như là đã bạn bè lâu rồi.
Chuyện chẳng đâu vào với đâu cả…
Trước sân, bên trái nhà lão có một
cái “lòi”*, với một lùm cây dại hoang sơ như dấu vết xa xưa còn sót lại. Cạnh bờ
rào có một cây bưởi còi cọc cao vóng lên thả trái lòng thòng như những chiếc
đèn lồng màu vàng nhỏ xíu.
Lão dẫn tôi đi thăm cơ ngơi dòng họ
Trần xứ Phuống- Thanh Giang. Một bờ rào
xây theo kiểu hoàng thành bao bọc lấy cả khu đất khá rộng có nhiều gia đình
dòng họ Trần trong đó. Cổng vào, xây
theo kiểu “ngõ môn quan”, như cổng đình chùa hoặc biệt phủ thời xưa.
Tôi biết được đôi điều về lão là qua
nhạc sĩ đồng hương Phan Thanh Chương. Đại để, lão là phó giáo sư, tiến sĩ vật
lý, quân hàm đại tá, lương tướng, nhưng chưa hề là đảng viên. Bây giờ về hưu nhưng
vẫn còn một xưởng thí nghiệm tư nhân về công nghệ vật liệu ở Hà Nội… Còn lão biết
tôi thế nào thì tôi không biết.
Xứ Phuống cách nhà tôi chừng mười cây
số. Quê tôi và quê lão nghè gàn nằm bên phía hữu ngạn con sông Lam. Sông Lam bắt
nguồn từ thượng Lào, phần chảy qua đất Nghệ An để đổ ra biển Đông dài chừng một
phần tư chiều dài của cả dòng sông. Do nó chạy sát vào chân dãy Trường Sơn, nên
phần đất bên phía hữu ngạn có lắm sông con, khe, rạch.. đoạn chảy qua huyện Thanh Chương vốn đã hẹp
lại bị cắt rời thành nhiều mảnh. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, ưu điểm đâu chẳng
thấy, chỉ thấy gió mưa bão lụt hạn hán gió Lào dày xéo từ đời này qua đời khác.
Nơi đây có tiếng là vùng đất có nhiều thiên tai, thiên nhiên khắc nghiệt. Những
cơn mưa từ mái nhà của dãy Trường Sơn tuôn xuống, cuốn trôi hết mỡ màu của đất
đai ra biển. Đất cằn, ruộng hẹp, người dân quê từ bao đời nghèo khổ nên trai trẻ
có chí chăm lo học hành để vượt thoát cái nghèo truyền kiếp của quê mình. Một
trong những điển hình của mảnh đất Thanh Chương hiếu học là làng “ Ba Nghè” nổi
tiếng của xã Thanh Giang. Vùng đất “nhân kiệt” này còn được nối tiếp bởi nhiều
nghè, nhiều cống khác, và đương nhiên trong đó có lão nghè gàn Trần Sĩ Kháng
“quái kiệt” này nữa!
Không biết là, do tôi có thói quen,
hay đó là bản năng sống của mình, khi đối diện với Trần Sĩ Kháng- một người vừa
mới quen biết, tôi không chú ý lắm để giữ
gìn hay che đậy ý nghĩ thật, cảm xúc thật của mình. Gần như là tự nhiên thế, hồn
nhiên thế, tôi lộ tẩy hết cả “tim gan phèo phổi”của mình với lão ngay từ lần gặp
đầu tiên. Thôi thì triết học, tôn giáo, vật lý, toán học, văn học… tôi tán dóc
với lão ào ào. Tôi quên mất lão là phó giáo sư vật lý, quên mất lão là giảng
viên học viện kỹ thuật quân sự- thứ mà tôi không biết “mô- tê- răng- rứa” gì.
Và ngay cả trước kiến thức về Phật học uyên thâm của lão, tôi cũng coi như mình
là đối tác tranh cãi, luận đàm với lão như không. Chuyện với lão luôn là những
chuyện tầm phào “viển vông vĩ đại”. Tôi tự thấy “vũ trụ quan” của mình với lão
khá giống nhau. Chỉ có điều mình chỉ biết đại khái còn lão thì được bảo chứng bởi
tri thức khoa học cụ thể.
Xứ Phuống- Làng Ba Nghè cho lão “cái
chí”. Còn “cái khí” tuy chiếm tỷ lệ rất nhỏ nhưng là yếu tố bản chất, là của
chính lão. Trong nhiều bài viết của mình, Trần Sĩ Kháng coi mình là “tiên
thiên”- là phẩm chất “trời”, là “thiên giới”. Thoạt nghe thì có vẻ kiêu, nhưng,
suy cho cùng, “cái khí” là “tiên thiên”, là “trời”, là sự tụ hội “tinh khí của
hạo nhiên” mà thành. Phẩm chất ấy, một nhà vật lý như lão cũng khó mà giải
thích bằng những tri thức giáo khoa được. Chính khi lão rẽ sang Đạo Phật, nhờ
thế, lão có cái nhìn thế giới “tồn tại khách quan” lung linh, huyền ảo mà cũng
biện chứng hơn nhiều. Với vô vàn khái niệm Đạo Phật, cho phép lão gom tất cả những
“sự vật và hiện tượng”riêng rẽ, hỗn độn trong tự nhiên thành từng nhóm tổng
quát, với những tên gọi rất đơn giản nhưng bao trùm, như: giới, kiếp, nghiệp, huyền, sắc, không, dục,
giác vv…
Tôi “bập” vào văn chương của Trần Sĩ Kháng, không vồ vập và hăm hở như
những khi “bập” vào thứ văn chương lạ, thường gặp, mà trái lại, ban đầu đọc nó
bị dội, rất khó vào, bởi nó khác xa với thứ văn chương thông thường. Xét một
cách nào đó, văn chương được làm nên bởi hai thứ nguyên liệu chính, là “cái biểu
đạt” và “cái được biểu đạt”. “Cái biểu đạt” là phương tiện. “Cái được biểu đạt”
là đối tượng. Cả đối tượng và phương tiện đều có tính lặp lại, cũ mòn. Ngôn ngữ -
cái biểu đạt - cái phương tiện gần như là một hằng số không đổi. Nó tuy nhiều
hơn, tuy phong phú hơn màu sắc, ánh sáng, âm thanh nhưng nó không có khả năng
biến hóa, thay đổi uyển chuyển được như màu sắc, âm thanh, ánh sáng. Thiên
nhiên luôn là nhà sáng tạo vô biên, vô đối. Một rừng cây, hay có khi tất cả các
rừng cây trên trái đất, chưa chắc đã tìm thấy hai cây giống nhau như hệt. Cũng
như vậy, tiếng suối reo, tiếng chim hót, tiếng vi vu của sáo diều, tiếng rì rào
của sóng biển, tiếng xào xạc của lá rừng vv… là bản đàn muôn điệu của vũ trụ mà
chưa có một nhạc sĩ tài ba nào có thể sánh kịp. Con người, nói theo cách của Hồ
Đồ Thi Nhân Trần Sĩ Kháng là chúng sinh, là thuộc “Trời Hằng Kiều của Cõi Dục
Giới”. Đem so nó với hành tinh mà nó đang ký sinh trên đó đã là vô cùng bé nhỏ
rồi. Đến như Trái đất mà nó đang ký sinh trên đó cũng chỉ là “ một Trời con” “
Trời con” này là loại Trời nhỏ và thấp nhất trong Trời Tứ Thiên Vương. Trong Trời
Tứ thiên Vương còn có Trì Mang nằm trên Hằng kiều, Trời Kiên Thủ năm trên Trì
Mang”vv…. Từ nhận thức như vậy, Trần Sĩ Kháng có tham vọng, coi thi ca phải đứng
trên, đứng ngoài, đứng cao hơn chúng sinh, hạ giới. Thi ca là thuộc về Huyền Giới.
Nó hoàn toàn thoát tục. Một thứ thi ca như vậy rõ ràng chỉ là một lý tưởng, một
hoài bão mà thôi! Thơ của “Hồ Đồ Thi Nhân” Trần Sĩ Kháng nó khác thường, ở chỗ,
nó là thứ thơ đem trộn lẫn ngôn ngữ nhà Phật với ngôn ngữ thông thường của “văn
hóa bản địa”. Nó rất khó được chấp nhận trong hệ thống báo chí, kể cả các báo
chí văn nghệ, và nó cũng rất khó để có thể “ đại chúng hóa” được. Nhà thơ Trần
Ninh Hồ có đọc thơ của Trần Sĩ Kháng, anh cũng hết sức lạ lẫm với thơ Trần Sĩ
Kháng. Một “chủng” thơ không hẳn là thơ thiền, thơ thần, thơ thánh, thơ nhà Phật,
mà nó là thứ thơ nhìn đời sống, hiện thực, hạ giới, chúng sinh của một kẻ “bề
trên”, của một người đã nắm được cái tất yếu của “văn hóa bản địa”. Một thứ thơ
“ngông”, thơ “ngạo đời”, chỉ có điều, ngay cả như khi không chấp nhận nó, loại
bỏ nó, thì cũng không thể phủ nhận được, nó được kiến tạo bởi một tư duy sắc sảo,
với một kiến văn về nhiều mặt của một “ con người thường” “con người hạ giới” với
đầy đủ các trạng thái tình cảm “hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục”nơi hạ giới. Ban đầu,
tôi đã rất khó chịu bởi, sau một bài thơ được công bố trên mạng xã hội
facebook, lão lại kết thúc bởi câu: Hahaha! Ta đi đây! Nhưng, khi nghĩ lại, thì
thấy, một người làm thơ không mong chờ một cái gì cả, nói như là nói vào chỗ trống
không vậy, phải chăng đã là kiêu ngạo? hay là, đó là câu nói của người đã ngộ
được cái triết lý “hỉ,xả” của Đạo Phật? Loại bỏ đi những yếu tố gây khó chịu
khi đọc, chỉ chăm chú nhìn vào “ đứa bé” kháu khỉnh trong “ chậu nước”, thì thấy,
trong “dung môi” gây khó chịu của thơ Trần Sĩ Kháng, lại có một “ đứa bé” kháu
khỉnh, nói như nhà thơ Trần Ninh Hồ, có những câu thơ gây sửng sốt cho người đọc.
Nó là thơ đích thực. Nó đủ sức tôn vinh tác giả của nó là thi sĩ thực thụ.
Cũng
như thơ ca ngâm vịnh, thơ ca của các thi đàn xa-lông vua chúa trước đây, thơ ca
đại chúng cũng có thời hoàng kim của nó.
Một dàn đồng ca mà yêu cầu thành công của mỗi giọng ca là phải hòa vào
khít khịt với các giọng ca khác. Bây giờ, khi các cá thể mới là chủ thể trong một
xã hội văn minh thì, chủ thể sáng tạo và chủ thể thụ hưởng sự sáng tạo là những
con người cụ thể. Và khi vấn đề dân tộc phải phục tùng vấn đề con người trong
xã hội hiện đại, các nền văn minh giao thoa với nhau trong một thế giới phẳng,
thi ca buộc phải quan tâm nhiều hơn đến thân phận con người nói chung. Một bài
thơ viết về biển đảo, về biên giới, dù hay, nhưng nó sẽ trở nên lạc lõng trong
một thế giới hội nhập, thế giới đang tiến tới toàn cầu là một mái nhà chung. Vấn
đề về quê hương, tổ quốc khi ấy chỉ là vấn đề về mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên; là mối quan hệ về môi trường sống. Chính là sự dứt ra khỏi những
khuynh hướng truyền thống để tìm tòi, khám phá những đối tượng quan tâm mới,
và, làm giàu thêm các khái niệm mới trong thi ca, là rất đáng được ghi nhận.
Tôi
cho rằng, trong hoạt động sáng tạo văn
chương, năng khiếu là cái ban đầu, cái cần có, nhưng tài năng văn chương nó phải được thể hiện ra
bằng “sức vóc văn hóa” chứa đựng trong tác phẩm của họ. Sáng tạo nào cũng phải
đứng trên đầu ngọn của tri thức quá khứ. Tôi hy vọng rất nhiều ở những sáng tác
của những trí thức, những người mà, nền tảng tư duy của họ là đứng “trên đầu ngọn”
của những môn khoa học và tâm linh. Tư tưởng - cái mà lịch sử nền văn minh sông
Hồng còn thiếu, phải chăng là cốt lõi của văn chương?. Trần Sĩ Kháng, và một thế
hệ các trí thức, tuy trưởng thành trong mái trường XHCN, được đào tạo bởi một
trong những trường tốt nhất của Liên Xô cũ, nhưng anh, và nhiều người trong thế
hệ của mình, sớm phát hiện ra sự bất cập của học thuyết kinh điển của CNXH, rằng,
nó được đặt trên một nền tảng triết học không mấy vững chắc do hạn chế nhận thức
đến thời kỳ mà học thuyết ấy ra đời. Sau này, mặc dù làm nghiên cứu khoa học,
nhưng Trần Sĩ Kháng, nhờ vào việc nghiên cứu triết học và tâm linh mà có được một
quan niệm “hơn người” về “thế giới quan”, tiệm cận được với những hiểu biết mới
nhất . Bằng trí tưởng tượng phong phú, Trần Sĩ Kháng, trên một số lĩnh vực, đã
leo tới “đầu ngọn” của tri thức. Tôi đồ rằng, tâm linh chính là môn khoa học của
tương lai. Nó chính là bí ẩn của vũ trụ. Là phần, mà ngoài Thượng Đế và Đức Phật
ra, chưa ai hiểu biết cả. Nó tách “chúng sinh” và các “pháp tăng” ra hai phía.
Và trong nhiều trường hợp, Trần Sĩ Kháng coi mình như là một “pháp tăng” truyền
giáo cho không phải một “đạo”, mà là, cho một môn khoa học mới - Môn “khoa học của
tương lai”.
Trở lại với thơ ca của Trần Sĩ Kháng, tôi không đọc được hết
những sáng tác của lão. Tuy nhiên, tôi rất có ấn tượng với chùm thơ về Huế và
chùm thơ về Tràng An. Huế được coi là xứ sở của thơ- xứ sở của mộng mơ. Huế “yên bình đến lặng không”. Huế, “Núi Ngự Bình
mây trời lười nhác không muốn lang thang với gió”. Huế “sông Hương dùng dằng
không muốn chảy ra biển Đông”. Huế “Các lâu đài cổ kính và tan hoà vào thiên
nhiên như có bàn tay của Đất Trời sắp xếp vậy”. Và chàng “Hồ Đồ Thi Nhân”, bao
nhiêu năm bôn tẩu khắp đất Bắc, trời Âu, suốt ngày say sưa Mỹ nhân, Mỹ tửu chốn
kinh kỳ Tràng An, bỗng sững sờ trước Huế:
Em hát
Khói sương ảo mờ mà
thương dành Huế
Lời ca nào dệt buồn
thê lương đến thế
Thành Nội chở che vành trăng nhàu phai
Đau mạn thuyền rồng nghẹn nơi Nam ai
Mai về thương nhau chòng chành con sóng
Vồ vập Nam Bằng
Quấn quýt Nam Giao
Xô bờ động bến
Dày vò đêm
Tan chảy trái tim người.
Đọc
chùm thơ về Huế của Trần Sĩ Kháng, tôi có nhận xét, lão đến Huế không với tư
cách một “công cán yếu nhân” hay một “du lịch khách nhàn du”, mà, lão như vừa từ
một trang sách sử bước ra nhìn dấu tích vương quyền từng một thời “vàng son”
chói lọi. Lão đem cái tiết tháo “Nghè Gàn Xứ Phuống” mà hạch hỏi Huế rằng, Vua chúa đâu? mà:
Ngai vàng trống vắng
Tìm đâu kẻ sĩ để tương giao
Tháng năm đằng đẵng
Long sàng đẫm lệ cô đơn!
Đứng
trước Huế, giữa “thanh thiên bạch nhật” nhưng thi nhân như không nhìn thấy những
ảnh hình cận cảnh, mà bức tranh Huế trong mắt thi nhân Trần Sĩ Kháng được phủ một lớp sương khói thời gian. Bài
thơ viết thật nhất, rõ nhất về Huế, là bài “Bên Lăng cổ”, cũng không thoát
ngoài thi cảm ấy :
Vô tư sành và sứ
Hút hồn ta xứ này
Ngây thơ oanh chàn hỏi
Đắm đuối bướm hoa say
*
Sóng nước lao xao bóng
Rồng thiêng vẫy vùng mây
Chim sẻ đậu lạc lối
Nhè cành trúc mỉa mai*
Mộ xưa hương còn thoảng
Người chuyển kiếp sang thuyền
Mây vàng thường tuyên giảng
Giả tạm chốn trần ai !
Đến Huế, “tham, lãm” Huế, nghe điệu Nam Bình mà thi nhân lại nghĩ về Chúa Nguyễn:
Khúc biệt ly trĩu hành trang
Chúa Nguyễn
Ruổi ngựa quá hoành Sơn
Mộng thành nghiệp đế
Mắt vời cay tê tái nhớ cố hương
Phương trời xa ngơ ngác Thành Phú Xuân
Trằn trọc chiếu thơ Các Khuê Văn tơ tưởng.
Chùm thơ về Huế của Trần Sĩ Kháng đem đến một góc nhìn về Huế sâu hơn, nhờ “chất khảo luận” nhưng, nó không mất đi nét mộng mơ của Xứ Huế, bởi “chất tản văn” có trong thơ. Chùm thơ Huế đạt được “sự mạch lạc” trong bề bộn nghĩ suy giữa quá khứ và hiện tại; giữa trữ tình thiên nhiên và nhân- quả kiếp người.
Cũng như vậy, những bài thơ viết về đất Tràng An Kinh Kỳ , cũng thấm đẫm văn
phong của một trang “nho phong đạo cốt” trước thiên cảnh Tây Hồ- Phố Phái:
Phất nét cong khảm vào
mây trắng
Đao đình xuyên song cưỡi
rồng bay
Đâu thinh không vang tiếng chuông chiều
Chầm chậm bước, nghe lời xưa dặn lại…
*
Đưa em về nghiêng trăng Phố- Phái
Tương tư mòn lối Đế Đô xưa!
Trần Sĩ Kháng là một người “Tây học”.
Nhưng, có vẻ như, ngôn ngữ trong thi ca của Trần Sĩ Kháng lại thuần chất Á
Đông. Đoạn thơ sau đây trong chùm thơ về đất Tràng An Kinh Kỳ cho thấy rõ điều đó:
Vẫn biết chốn quan trường hung hiểm
Thường trực Tham- Sân- Si
Ức Trai biết mũi diều hâu
Của Việt Vương tái hiện
Sẽ diễn trò: Hết săn mồi thì ăn thịt
chó săn
Vẫn biết họa gần nên vội tìm về thâm
sơn quy ẩn
Nhưng Tiên Sinh không biết lo xa
Vẫn biết dòng họ truyền đời coi quyền
lực hơn mọi tình cốt nhục
Thì xưng thần phò tá làm chi cho uổng
một kiếp thiên tài
Đại cáo bình Ngô mực còn chưa ráo!
Cáo chồn ưng khuyển đã dằng xé mồi
trong hoàng cung
Hãi hùng thay! Thương lắm thay! Lệ
Chi Viên oan nghiệt!
Hai chùm thơ về Kinh Thành
Huế và Đất Tràng An Kinh Kỳ của Trần Sĩ Kháng là có thể tóm lược và tiêu biểu cho bút pháp và thi cảm
của một “ chí sĩ- thi sĩ” gốc Xứ Phuống rồi. Phần thơ tao đàn “ Mỹ nhân và tiếng
thở dài của thi ca” nhiều lắm, cũng chỉ là sự “phong phú hóa” những nét tính
cách của một trang “phong lưu” nơi “ Cõi Dục Giới”:
Sao chiều nay Em không mang theo hồn TaEm để sóng Tây Hồ dày vò hồn Ta thành tàn phế
Ta thất thểu cùng hồn lang thang trên Hoang phố
Mây có bận gì đâu mà không chở hồn Ta về.
Những bài thơ tình trong tập “Mỹ nhân
và tiếng thở dài trong thi ca” của Trần Sĩ Kháng là những bài thơ ngắn. Với thi pháp thực mà ảo , ảo mà thực, những
bài thơ này về cú pháp thì đơn giản, nhưng ý tứ sâu xa nằm ngay trong những khái niệm được dùng, ví
như: Ta đang nhớ nồng nàn Mùi Hương Thiên
Giới ấy, chẳng hạn! Hương Thiên giới,
là hương người, hương đức hạnh. Hương không theo quy luật thông thường; Hương
không bay thuận theo chiều gió. Thơ vì thế mà mang một ý nghĩa thoát tục, phiêu bồng
hơn!
Trong rất nhiều “ngăn tri thức” mà Trần Sĩ
Kháng tích cóp được cho đến ngày lão định
dùng nó để “vắt” thành một “ Hồ Đồ Thi Nhân”. Thật khó mà phân định rạch ròi được,
trong thơ Trần Sĩ Kháng “tỷ lượng” là
bao nhiêu, giữa “chất khoa học”;
“triết học”; “văn học”; “thiền sư” ; “đời thường”; và “gàn Nghệ”?… Có nhiều là những sự kết hợp
còn thô sơ, cơ học, nhưng, những chỗ mà
sự kết hợp ấy đạt tới trình độ nhuần nhuyễn nó làm ánh lên một “hợp chất” thi
ca, mang tên Trần Sĩ Kháng.
Đọc thơ lão, tôi bỗng hình dung về một
“quái đản sĩ” trong chốn văn chương, và trong “Cõi Dục Giới” này. Cảm giác như
lão là một khối mâu thuẫn: Lúc thì lão sắm vai một “pháp tăng” truyền đạo; Lúc
thì lão chìm đắm trong những cảm hứng
thi ca phiêu bồng; Đầu thì muốn thoát tục mà chân thì không thể rời chốn Mỹ
nhân, Mỹ tửu… Tôi gọi lão là “ Gã Nghè
Gàn Xứ Phuống. Còn lão tự nhận mình là
“Hồ Đồ Thi Nhân”. Vẫn biết, khái niệm luôn chật hẹp hơn “thực tại khách quan”.
Cái “tôi” là cái riêng. Cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Lê Huy Mậu
là Lê Huy Mậu. Trần Sĩ Kháng là Trần Sĩ Kháng. Nếu bản thân cái tên ấy không
nói lên được điều gì, thì, mọi “ trang sức” khoác lên nó cũng chẳng có ý nghĩa
gì cả!
Vũng Tàu ngày 25/9/2015
L.H.M